Sách Phủ Biên Tạp Lục PDF tải FREE

Sách Phủ Biên Tạp Lục PDF tải FREE

Sách Phủ Biên Tạp Lục PDF tải FREE là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Sách Phủ Biên Tạp Lục PDF tải FREE đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

**LỜI NHÀ XUẤT BẢN**

Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất Việt Nam dưới thời phong kiến. Ông là tấm gương sáng về lao động học thuật cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Lê Quý Đôn – một nho sĩ yếu nước luôn mang trong mình những hoài bão lớn lao, ông khao khát đưa xã hội Lễ – Trịnh đến thái bình thịnh trị, mang lại cuộc sống bình an cho nhân dân. Đặc biệt, khác với những nho sĩ đương thời, ngoài sự ham hiểu biết và đam mê đọc sách, ông đi nhiều và hiểu nhiều, luôn suy ngẫm đến cùng những sự vật hiện tượng diễn ra xung quanh và ghi chép lại tất cả những điều mắt thấy tai nghe. Chính vì vậy mà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng những công trình vĩ đại, có giá trị to lớn bậc nhất về lịch sử, thiên văn, địa lý, chế độ điển dắt thuế khoá của Việt Nam dưới thời Lê – Trịnh…. Tác phẩm của Lê Quý Đôn có rất nhiều, chẳng hạn như: – Phủ biên tạp lục; – Kiến văn tiểu lục; – Bác sử thông lục; – Đại Việt thông sử hay Lê triều thông sử; – Lê triều công thần liệt truyện; – Văn đài loại ngữ; – Quần thư khảo biện;

Lê Quý Đôn tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, quê ở làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ Lê Quý Đôn là Lê Trọng Thứ đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn (1724), làm quan đến Hình bộ thượng thư. Mẫu thân ông là người họ Trương. Lê Quý Đôn sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (1726). Thuở nhỏ, Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng. Năm 2 tuổi ông đã học được chữ ” hữu” và chữ “vô”; lên 5 tuổi ông đọc được nhiều bài trong Kinh Thi; năm 10 tuổi, ông học sử và Kinh Dịch; năm 14 tuổi, ông học hết Ngũ kinh, Tử thư, Sử truyện và Chư tử. Năm 1739, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long và đến năm 1743 tức năm 18 tuổi, ông thi đỗ Giải nguyên.

Năm 1752, ông đỗ đầu kỳ thi Hội, khi vào thi Đình ông đỗ Bảng nhãn tức lại đỗ đầu. Năm 1754, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Hàn lâm viện Thừa chỉ sung Toản tu Quốc sử quán. Năm 1756 ông được cử đi liêm phóng ở Sơn Nam. Tháng 5 năm 1756, Lê Quý Đôn được chuyển sang phủ Chúa Trịnh coi việc quân sự. Tháng 8 năm 1756, ông được cử đi hiệp đồng với các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá v.v… và đã đem quân đi đánh nghĩa quân của Hoàng Công Chất. Năm 1757, ông được thăng lên chức Hàn lâm viện Thị giảng. Năm 1760, nhân vua Ý Tông mất, Lê Quý Đôn và Trần Huy Mật được cử dẫn đầu một phái đoàn sang.

Năm 1761 phái đoàn nước Đại Việt đến Bắc Kinh. Nghe tiếng trong phái đoàn sứ thần nước Đại Việt có Lê Quý Đôn, các nho thần nhà Thanh như Binh bộ Thượng thư Lương Thi Chính, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác đã đến sứ quán Đại Việt thăm Lê Quý Đôn. Khi làm lễ ở Hồng Lô tự, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên là Hồng Khải Hi, Triệu Vinh Kiến, Lý Hưng Trung. Lê Quý Đôn đã làm thơ với họ, cho họ xem bộ Thánh mô, Luân thư khảo biện và tập Tiểu Tường.

Trong hành trình qua các tỉnh của Trung Quốc, Lê Quý Đôn thấy trong văn thư bọn quan lại nhà Thanh dùng những tiếng “di quan, di mục” (tức bọn quan lại của xứ man rợ) để chỉ phái đoàn sứ thần nước Đại Việt, nên khi đến Quế Lâm, Lê Quý Đôn có viết thư cho bọn quan lại nhà Thanh ở Quảng Tây phản đối việc dùng những tiếng “di quan, di mục” để chỉ sứ thần nước Đại Việt. Quan lại nhà Thanh ở Quảng Tây cho ý kiến của Lê Quý Đôn là hợp lẽ phải, liền xin cấp trên thay đổi cách xưng hô đối với sứ thần Đại Việt. Từ đấy sứ thần Đại Việt được gọi là “An Nam cống sứ”. Lê Quý Đôn lại đề nghị nhà Thanh nên bỏ hẳn tiếng “di” để chỉ người Đại Việt.

Chúa Trịnh tin mình. Trịnh Sâm cũng như Trịnh Doanh đều biết tài của Lê Quý Đôn, nhưng cả hai đều không bao giờ chịu trao cho ông một chức vị dù quan trọng để ông có điều kiện thi thố được tài năng. Vì vậy suốt đời ông, không bao giờ Lê Quý Đôn thấy các đề nghị cải cách được thi hành. Về chính trị, có thể nói Lê Quý Đôn là người bất đắc chí, ông bất đắc chí ngay cả khi ông nắm quyền cao chức trọng ở triều đình. Về hoài bão “đọc sách, viết sách”, Lê Quý Đôn hầu như được hoàn toàn toại nguyện. Trong đời ông, Lê Quý Đôn đã đọc tất cả những sách mà ông có được. Trần Danh Lâm, bạn của Lê Quý Đôn đã viết rất đúng về ông: “Lê Quế Đường người huyện Duyên Hà không sách gì không đọc, không vật gì không suy xét đến cùng, ngày thường ngẫm nghĩ được điều gì đều viết ngay thành sách, sách chất đầy bàn, đầy tủ, kể ra khôn xiết”.

Năm 1761, trong thời gian thực hành sứ vụ ở Yên Kinh (sau là Bắc Kinh), Lê Quý Đôn đã đọc Khôn dư đồ thuyết và nhận thấy rằng trái đất là một quả cầu quay chung quanh mặt trời. Đọc Văn dài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục và các sách khác của Lê Quý Đôn, chúng ta sẽ thấy được tất cả các tri thức mà con người Việt Nam hồi thế kỷ XVIII có thể nắm được. Ông quả là cái tủ sách tổng hợp biết nói của nước Việt Nam trong thời kỳ đó. Trên thì thiên văn, dưới thì địa lý, giữa là con người, không gì Lê Quý Đôn không biết. Tri thức của ông rất rộng, mà lại rất sâu.