Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



Lời cảm ơn Xin được gửi lời cảm ơn đến những người luôn toàn tâm vì công việc: Kodi, Beverly, Sandi Lou, Sterling, Ann, Jeff, Terilynne, John, Adrienne, Lauren, Jon, Wilma, Stephanie, Amanda, Marshall, Katy, Emma, Ethan và Bailey. Cũng xin cảm ơn Monica, Kerri, Caren, Kalley, Nancy, Taylor, Ramona, Jeanette, Laurel, Matt, Christa, Laura, Janeal, Randa, Nicole, Cammy, Amanda, Cindy và Kathi. Thêm một lời cảm ơn đặc biệt đến Allyson Condie vì đã kiên nhẫn xem những trang bản thảo chưa hoàn chỉnh của tôi. Xin được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hết lòng của các anh chị em tại Nhà xuất bản Shadow Mountain, điển hình là Chris Schoebinger vì đã có một tầm nhìn chiến lược; Lisa Mangum vì phần biên tập tinh tế; Sheryl Dickert Smith vì kiểu thiết kế trang bìa đầy sáng tạo; Gail Halladay vì một khả năng tiếp thị đáng kinh ngạc; Tonya Facemyer vì tài năng đánh máy lão luyện; Angie Godfrey vì đã giữ cho tâm trí tôi luôn gắn bó với công việc và cuối cùng là Sheri Dew vì đã chấp nhận rủi ro đề xuất việc xuất bản.
Cảm ơn người quản lý của tôi, Laurie Liss, vì những điều cô đã chia sẻ và tình bạn đáng quý mà cô dành cho tôi. Xin được dành lòng biết ơn vô hạn đến gia đình Schwartz và Faulkner vì đã cho tôi mượn nhà trong những ngày cuối tuần khi tôi cần sự yên tĩnh để sáng tác. Cảm ơn những con người tuyệt vời của Woodstock, bang Virginia, vì đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong công tác nghiên cứu và vì đã nồng nhiệt chào đón gia đình tôi gia nhập vào cộng đồng của họ. Xin gửi lời cảm ơn đầy yêu thương đến những đứa con của cha là Oakli, Jadi, Kason và Koleson vì đã chịu hy sinh “những ngày vui vẻ của cha và con” khi cha đang vật lộn để hoàn thành quyển tiểu thuyết này.
Hẹn gặp các con ở Công viên W.O. Riley. Cảm ơn người vợ yêu dấu và tận tụy của anh, Kodi, vì đã luôn ở bên anh, kiên nhẫn đọc những bản thảo chưa hoàn chỉnh của anh, thay anh nhận phần lớn trách nhiệm nuôi dạy con cái, và vì hình ảnh em luôn nhắc nhớ trong anh để xây dựng nên nhân vật Laurel Cooper một cách chân thực nhất.
CHƯƠNG 1
13 tháng Tư, 1988
Hơn 11 giờ đêm, Laurel rúc mình vào chiếc chăn lông màu nâu sẫm bên cạnh chồng mình, Jack. Bà vòng đôi cánh tay chắc khỏe của mình qua người chồng và thấy xót xa khi cảm nhận được những chiếc xương sườn của ông. Bà nhớ lại nhiều năm trước đây, ông nặng ký hơn bà nhiều. Nghĩ rằng Jack đã ngủ, bà bắt đầu thói quen hằng đêm của mình. Laurel hít một hơi thật sâu cho không khí căng tràn lồng ngực rồi khép chặt môi và thở ra chầm chậm bằng mũi. Nó làm bà cảm thấy dễ chịu. Bà nhắm mắt lại, cầu nguyện cho các con của mình là Matthew, Malcolm, Samantha, cho đứa cháu gái duy nhất Angela, và cho người chị duy nhất của mình Allyson. Bà cầu trời cho mình có thêm thời gian và trách bản thân sao không thể khỏe mạnh hơn. Bà kết thúc lời cầu nguyện thầm kín của mình bằng những giọt nước mắt đầu tiên và cũng là cuối cùng trong ngày.
– Này bà.
– Giọng Jack vang lên làm bà giật mình.
– Gì thế ông, tôi tưởng ông đã ngủ.
– Laurel kéo cái áo gối màu xanh dương lên chấm nước mắt.
– Vẫn chưa. Bà thấy đỡ hơn không?
– Đỡ hơn rồi. Nhưng chứng ợ nóng của tôi vẫn chưa khỏi. Chắc là tôi đã quá già để ăn món bánh kẹp quesadillas(*) , ông nhỉ? – Tay phải bà vuốt nhẹ lên mái tóc bạch kim của ông và tay trái xoa xoa ngực mình. – Còn ông? Có bị chóng mặt không? (*) Quesadillas: Bánh kẹp với vỏ được làm từ bột mì hoặc bột ngô, nhân là pho- mát và thịt bò, thịt gà, heo trộn với rau thơm. – Không, rất tươi tỉnh. – Ông thật khéo nói dối, Jack Cooper. – Tay bà nhẹ nhàng vuốt trán ông. – Bà nói đúng. Tôi nguyền rủa cái khối u chết tiệt trong đầu. – Suốt mười tám tháng qua, người chồng bảy mươi mốt tuổi của Laurel đã phải chống chọi với khối u não đang không ngừng to lên và cũng không phẫu thuật được, mà lúc mới phát hiện, nó chỉ cỡ viên bi, giờ đã gần bằng quả bóng bàn.
Những cơn đau đầu lại rất vô chừng; có khi hai ba ngày ông chẳng bị gì, nhưng khi cơn đau ập đến nó khiến ông đau đớn, buồn nôn, chóng mặt… và thực tế là ông mệt đến liệt giường. Ông chẳng còn bao nhiêu thời gian… Mặc dù bác sĩ khẳng định các loại thuốc và phác đồ điều trị mới đã được thông qua và sắp tung ra thị trường, nhưng Jack biết ngay cả Chúa cũng không thể cứu được ông. Mà ông nghĩ, Chúa còn nhiều việc phải làm hơn là cứu chữa cho chủ một quán trọ tỉnh lẻ như mình. “Chẳng hạn như đem hòa bình cho khu vực Trung Đông hoặc đưa đội bóng Chicago Cubs của tôi trở lại với ngôi vị dẫn đầu thế giới.”
– Ông hay bảo thế với Laurel. Bà phải nghe ít nhất là năm mươi lần những câu bông đùa đại loại thế này của ông mỗi khi ông đi khám về, kể từ ngày ông phát hiện ra căn bệnh quái ác. Cái quán trọ của hai ông bà trước đây có tên là Domus Jefferson – Ngôi nhà của Jefferson – tọa lạc tại trung tâm của thung lũng Shenandoah, lọt thỏm giữa hai ngọn núi Allegheny và Blue Ridge. Jack thường nói rằng nếu ông sống sót qua cái ngày định mệnh và nếu Đấng Tạo Hóa cho ông được lựa chọn giữa thiên đường và vùng sườn đồi xinh đẹp này thì chẳng cần mất nhiều thời gian để suy nghĩ.
Tối nay, một tối thứ Tư mùa Xuân, quán trọ B;B yêu quý của hai ông bà gần như vắng khách. Chỉ có một khách trọ duy nhất, Anna Belle Prestwich, người thừa kế gia sản kếch sù là một công ty sản xuất thức ăn cho thú cưng. Giờ này chắc bà ta vẫn chưa ngủ và đang ngấu nghiến một quyển tiểu thuyết trong căn phòng có giá 190 đô nhưng đã được bà hào phóng nâng lên tới 300 đô một đêm. Căn phòng được trang hoàng nội thất bằng đồ gỗ thủ công đắt tiền mô phỏng theo nhà của Thomas Jefferson tại Monticello, nhìn ra cánh đồng cỏ rộng 1,6 hecta trải dài từ sau lưng quán trọ 7 phòng ngủ đến tận con rạch nhỏ ở bìa rừng. Mỗi khi đọc xong khoảng ba hay bốn chương, bà lại cầm chiếc đèn pin của chồng ra ngoài đi dạo với chú mèo Castro.
Bà biết đa số người ta không dắt mèo đi dạo, nhưng đa số ấy không phải Anna Belle và đa số những con mèo cũng không gặp vấn đề về cân nặng. Anna Belle đã trở thành khách hàng thân thiết của quán trọ B;B nhiều năm qua. Thường thì bà chỉ đến ở một hoặc hai lần mỗi tháng, nhưng mỗi lần như vậy bà ở tới khoảng hơn mười ngày. Mái ấm thực thụ của bà, một thái ấp tuyệt đẹp theo phong cách phương Nam với bốn nhà khách – dân trong thị trấn vẫn đồn rằng nó đáng giá từ năm trăm ngàn đến một trăm mười triệu đô la – cách quán trọ này chưa đến một dặm. Vào những buổi sáng mùa đông trong trẻo, khi những hàng cây đã trút lá từ lâu, người ta có thể nhìn thấy tháp xilô cao vút từ một trong những kho thóc mà bà không dùng đến và mái của căn nhà chính màu trắng, xuyên qua những hàng cây đến tận phía đông.
Người phụ nữ trung niên Florida thấp bé, tròn trịa này đã gặp chồng bà là ông Alan Prestwich tại bãi biển Miami khi cả hai đang đi dạo dọc bãi biển vào một sớm mùa thu. Lúc ấy ông đang nhặt vỏ sò cho con gái của người trợ lý, còn Anna Belle đang tập cho Castro không sợ nước. Cuộc gặp gỡ sáng hôm ấy đã dẫn đến một cuộc hôn nhân không ai ngờ, và đấy là cuộc hôn nhân đầu tiên của cả hai. Người chồng mới cưới này của bà nói rằng ông yêu Anna Belle bởi sự chân thành nơi bà, vì vòng ba nẩy nở trông rất riêng và vì làn da trắng như sữa, mịn như bơ.
Nhưng ông yêu nhất vẫn là mái tóc màu đỏ sậm, gần như là nâu sẫm và hiện đang là xám yêu kiều của bà. Khi sánh đôi bên nhau dọc theo bãi biển trong buổi sáng hẹn hò đầu tiên, ông đã nói với bà: “Những người phụ nữ mà anh từng hẹn hò trước đây không ai dám ra khỏi nhà nếu chưa kịp nhuộm lại tóc. Nhưng Anna Belle – em là con cá duy nhất khác biệt giữa thế giới biển khơi toàn những thứ na ná nhau”.


