Tải FREE sách Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp PDF

Tải FREE sách Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp PDF

Tải FREE sách Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

Lời nói đầu

“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên năm 1925 tại Paris (thủ đô nước Pháp) trên báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản. Tác phẩm này không chỉ là một công trình nghiên cứu mang tính chất chính trị, mà còn là một bản cáo trạng sắc bén đối với những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra đối với các dân tộc thuộc địa.

Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách hành văn ngắn gọn, súc tích, và lối phân tích sâu sắc. Bằng những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng “thuế máu” cho chính quốc để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; đày đọa phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm 1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã xuất bản bằng tiếng Việt. Nhân hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ in tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” – một trong những đỉnh cao của văn chương chính luận cách mạng. Để giúp bạn đọc thuận tiện trong việc nghiên cứu nội dung tác phẩm, chúng tôi có in lại lời giới thiệu của Giáo sư – Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu quyển sách trên với độc giả.

Lời giới thiệu

Vào cuối thế kỉ 19, khi bọn thực dân Pháp đặt xong bộ máy cai trị ở Việt Nam, chúng bắt tay vào công cuộc khai thác đất nước ta với quy mô lớn. Sự bóc lột hết sức tàn ác, dã man của bọn tư bản độc quyền Pháp cộng với sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ phong kiến trong nước được chúng tiếp tay làm cho đời sống của nhân dân ta vô cùng điêu đứng, khổ cực. Nước mất, nhà tan, đời sống bần cùng, không có con đường nào khác, nhân dân ta đã đứng dậy đấu tranh.

Trong mấy chục năm cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20, các phong trào yêu nước cuồn cuộn dấy lên khắp từ Bắc chí Nam. Tầng tầng, lớp lớp thợ thuyền, dân cày, dân nghèo thành thị, nhà buôn, trí thức, học sinh… kết thành những đợt sóng đấu tranh liên tiếp, mạnh mẽ. Dưới những hình thức khác nhau, quần chúng khởi nghĩa trên những vùng rộng lớn chống bắt lính, bắt phu, chống sưu cao, thuế nặng, chống khủng bố, cầm tù, v.v…; nói chung lại, là chống ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Tất cả đều thể hiện một tinh thần chung là chống đế quốc, chống sự hà khắc, tham nhũng của bọn quan lại, chống bọn phong kiến hợp tác với giặc, phản dân hại nước; tất cả đều thể hiện một ý chí chung là giành độc lập, tự do. Dù chưa đạt tới mục tiêu, song các phong trào yêu nước lúc này, về khách quan, đã hình thành – dĩ nhiên là tự phát – những yếu tố, những đường viền của một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, bao gồm nhiều tầng lớp xã hội.

Nhưng do hạn chế của những điều kiện lịch sử, các phong trào yêu nước của tất cả các tầng lớp xã hội lúc này – kể cả các phong trào đấu tranh của công nhân đã xuất hiện ngay từ giữa những năm chín mươi của thế kỷ thứ 19 – đều chưa có đường lối đúng đắn. Những người cầm đầu các phong trào chưa phân biệt được địch, ta, bạn, thù; chưa nhận thức được rằng đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam không phải là hiện tượng riêng lẻ, mà là một vấn đề thời đại gắn liền với cả giai đoạn lịch sử chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới; họ chưa nhận rõ nhiệm vụ cách mạng Việt Nam lúc này là phải đánh đuổi đế quốc Pháp giành độc lập, tự do, đánh đổ phong kiến địa chủ giành quyền dân chủ cho nhân dân, giành ruộng đất cho nông dân; họ càng không thể thấy được lực lượng cách mạng chủ yếu là công, nông trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo.

Do những hạn chế đó, lại bị những đòn tấn công rất ác liệt, man rợ của quân thù, cho nên các phong trào đều lần lượt bị thất bại. Ách áp bức của kẻ thù càng thêm nặng, nỗi thống khổ của quần chúng càng thêm chồng chất, tiền đồ của dân tộc vẫn mờ mịt.

Nhưng tất yếu là, càng bị đàn áp, càng bị thất bại, càng thống khổ thì quần chúng càng thêm nung nấu lòng căm thù và ý chí chiến đấu, càng khát khao tìm cách thoát khỏi kiếp sống trâu ngựa.

Như vậy, một vấn đề mà lịch sử lúc này đặt ra là phải có những người ưu tú, tiên tiến nhất trong đội ngũ những người yêu nước Việt Nam có khả năng vượt lên khỏi những hạn chế kể trên, tìm ra một con đường đúng đắn nhất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, người thanh niên giàu lòng yêu nước, tiên tiến nhất trong đội ngũ những người yêu nước đã nhận lấy trách nhiệm ấy trước lịch sử, xuất dương, tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân.

Ra đi, dĩ nhiên cũng với tư cách một người yêu nước như những người đi trước, nhưng đồng chí không đi con đường của những người đã đi – không cầu cạnh một lực lượng bên ngoài giúp dân mình (mà lực lượng bên ngoài đây lại không phải ai khác bè lũ đế quốc). Đồng chí đi về phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, dân chủ, dân quyền, có khoa học, kỹ thuật hiện đại thu hút đồng chí. Đồng chí đi về phương Tây vì mục đích cách mạng và do một sự nhạy cảm cách mạng làm cho đồng chí nhận thấy chỉ ở đó mới có thể phát hiện ra cái nguồn gốc của mọi thảm họa đã trút lên đầu lên cổ dân tộc mình và cái đầu mối của sự nghiệp giải phóng đồng bào mình.

Đi khắp năm châu bốn biển, lăn lộn trong cuộc sống lao động và đấu tranh của quần chúng lao khổ ở các nước tư bản và thuộc địa, đâu đâu đồng chí cũng chứng kiến cảnh sống trái ngược giữa một bên là thiên đường của những kẻ giàu sang sống cảnh đế vương, một bên là địa ngục trần gian của hàng triệu người thuộc đủ mọi màu da sống kiếp ngựa trâu, tủi nhục, lầm than, đói rách.

Hàng chục năm phấn đấu, rèn luyện gian khổ trong đấu tranh và học tập đã làm sáng tỏ dần những chân lý cách mạng mà đồng chí đang cần tìm hiểu.

Chiến tranh thế giới thứ nhất một mặt đã bộc lộ đầy đủ bản chất bóc lột, tàn ác, dã man của chủ nghĩa đế quốc và sự suy yếu của nó; mặt khác nó lại là cơ hội để chủ nghĩa đế quốc tăng cường bóc lột giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, đẩy sâu thêm con người lao động vào cảnh bần cùng.

Sự kiện này làm bừng sáng lên trong nhận thức của đồng chí một chân lý: chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản là cội nguồn của mọi sự khổ đau của quần chúng, và quần chúng lao khổ ở đâu cũng là người chung số phận, và do đó chung một chiến tuyến với dân tộc mình.

Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần của đồng chí. Nó đưa đồng chí đến chỗ khẳng định được con đường cách mạng đúng đắn nhất: con đường của Cách mạng tháng Mười. Đó là một chân lý mới. Nó thỏa mãn hoài bão lớn lao mà bao lâu đồng chí từng ôm ấp.

Dưới ánh sáng soi đường của Quốc tế cộng sản, của “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” do Lênin vạch ra, và dưới ảnh hưởng trực tiếp của cuộc đấu tranh thành lập Đảng Cộng sản Pháp – mà đồng chí là một trong những đảng viên đầu tiên, một trong những người tham gia thành lập – chủ nghĩa Mác – Lênin, chân lý cách mạng của thời đại, đã sáng tỏ, đã được khẳng định vững chắc trong nhận thức của đồng chí. Đó là bước chuyển biến quyết định về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị của đồng chí.

Từ đó, đồng chí càng hoạt động nỗ lực và sôi nổi trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hoạt động trong các tổ chức cách mạng và trong Hội Liên hiệp thuộc địa do đồng chí sáng lập, đồng chí đã viết nhiều sách báo tấn công vào chủ nghĩa đế quốc, kêu gọi, thức tỉnh quần chúng, vạch phương hướng cho quần chúng ở các nước thuộc địa đấu tranh.

Đây cũng là lúc mà đồng chí viết cuốn sách nổi tiếng: “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Cuốn sách này là sản phẩm tổng hòa của tất cả các tri thức – chính trị, triết học, xã hội, lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn – được tiếp thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” viết bằng tiếng Pháp vào những năm 1921-1925 và được xuất bản đầu tiên vào năm 1925 tại Paris – thủ đô nước Pháp.

Ngay từ khi mới ra đời, “Bản án chế độ thực dân Pháp” lan truyền đi nhanh và rộng khác thường. Rất nhiều người trong và ngoài nước biết đến nó. Hun đúc trong đấu tranh cách mạng, “Bản án chế độ thực dân Pháp” ra đời như một luồng ánh sáng mới xé tan đám mây mù đang bao phủ trên khắp đất Việt Nam và nhiều nước thuộc địa. Nó thỏa mãn cả lý trí và tình cảm của hàng triệu quần chúng cách mạng đang ngưỡng vọng và khát khao một chân trời mới; nó thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều lớp người tiến bộ đang mơ hồ, băn khoăn về một con đường giải phóng sáng sủa.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” có tác động lớn về nhiều mặt như vậy là bởi lẽ: Thứ nhất, tác phẩm này ra đời giữa lúc mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, giữa dân tộc ta và bọn đế quốc Pháp đã đạt tới điểm bùng nổ; tinh thần và ý chí chống đế quốc của nhân dân ta và nhân dân bị áp bức ở các nước khác lên cao, đòi hỏi một ngọn cờ hướng đạo đúng đắn để đi vào một cuộc chiến đấu quyết định vận mệnh lịch sử của dân tộc. Thứ hai, tác phẩm này đề cập đến những người thật, việc thật, những chuyện xảy ra hằng ngày, “mắt thấy tai nghe” ở những hoàn cảnh cụ thể nhưng có quan hệ thiết thân đến vận mệnh của hàng chục triệu con người trong cái địa ngục trần gian gọi là “xứ thuộc địa” và lý giải nó một cách khoa học theo quan điểm Mác – Lênin, quan điểm tiên tiến nhất của thời đại.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” trước hết là một bản cáo trạng. Nó tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp không phải chỉ ở Đông Dương, ở Việt Nam mà ở khắp các thuộc địa: Angiêri, Tuynidi, Tây Phi v.v… Trên thế tấn công, “Bản án chế độ thực dân” lột mặt nạ chủ nghĩa đế quốc bằng những chứng cớ, tang vật không thể chối cãi được. Và như các quan tòa thường xử những phạm nhân trọng tội, tác phẩm đã lôi bọn hung thủ – lũ kẻ cướp toàn cầu, ra trước vành móng ngựa, bắt chúng trả lời và diễn lại tại chỗ những tội ác mà chúng đã phạm với loài người hằng mấy thế kỷ. Bằng lý lẽ đanh thép, tác phẩm đã bóc trần bản chất bóc lột, tàn ác, dã man, phản động của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân:
Đó là việc vũ trang xâm lược “bình định” đất nước ta, đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nước của ta, để đặt và củng cố ách thống trị, bóc lột của chúng đối với nhân dân ta; là bóc lột bằng “thuế máu” – đầy đọa những con người gọi là “dân bản xứ” trên các chiến trường châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ nhất (Chương I);
là “việc đầu độc người bản xứ” bằng thuốc phiện và rượu cồn. (Chương II);
là việc giáng vào người bản xứ nào sưu thuế “nặng oằn lưng”, nào công trái, nào phu phen tạp dịch;
là “chính sách ngu dân” (làm cho dân ngu để dễ trị), một “chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”. (Chương IX);
là những luật lệ đặt ra vô tội vạ, hết sức khắc nghiệt, cho phép các nhà cầm quyền hễ ngứa tay thì phạt vạ, tống tù và kèm theo thảm sát đẫm máu;
vân vân và vân vân.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” còn chỉ mặt gọi tên những kẻ đại diện cho “nước mẹ” cho “tự do”, “công lý”, cho “sự nghiệp khai hóa” và “truyền bá văn minh”, đang ra tay hoành hành ở khắp các thuộc địa. Tất cả bọn chúng, toàn quyền, thống đốc, khâm sứ, công sứ… cho đến bọn đội lốt tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay sai mạt hạng của chúng, đều là lũ phản động, vô liêm sĩ, bóc lột tàn ác.

Sức tố cáo của tác phẩm càng mạnh mẽ thêm khi mô tả những nổi khổ nhục của người dân bản xứ, nhất là “nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ” (Chương XI). Dưới nanh vuốt của bọn thực dân, mọi tầng lớp thuộc người bản xứ, vua quan, hào lý, tư sản, trí thức, viên chức hay người dân lao động, từ cụ già đến trẻ em, đều bị coi là đám nô lệ thấp hèn, đều bị đối xử như súc vật và tính mạng đều “không đáng giá một trinh”. Bị cướp đoạt, đốt phá, giết chóc, đánh đập, hãm hiếp là chuyện hằng ngày xảy ra đối với người bản xứ ở khắp các thuộc địa.