Sách Sống Thời Bao Cấp - Ngô Minh PDF tải FREE

Sách Sống Thời Bao Cấp – Ngô Minh PDF tải FREE

Sách Sống Thời Bao Cấp – Ngô Minh PDF tải FREE là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Sách Sống Thời Bao Cấp – Ngô Minh PDF tải FREE đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

Tựa

Tôi thuộc thế hệ sinh ra, lớn lên và sống trọn vẹn trong thời bao cấp, thời của những tấn bi hài cười ra nước mắt. May mắn đất nước đã vượt qua thời ấy gần 30 năm. Chuyện thời bao cấp bây giờ nghe như kể chuyện cổ tích. Vâng, nó chính là “cổ tích” của một thời. Cổ tích từ thế giới lam lũ, khốn khổ mà cha ông của lớp trẻ hôm nay đã từng trải qua, đã từng chịu đựng, đã từng gồng mình lên để sống. Phải kể lại để lớp trẻ thấy ý chí của cha ông đã vượt qua cái cũ, cái lỗi thời, vượt qua cơ chế luật lệ hà khắc đã ngáng đường đi lên của mình như thế nào.

Mỗi người có những kỷ niệm riêng về thời bao cấp của mình. Người cho đó là thời dễ sợ, thời của những lạc hậu và bảo thủ. Người cho đó là thời của những ấu trĩ hồn nhiên, đáng trách nhưng không đáng giận. Người lại cho đó là thời dễ thương, đói nghèo nhưng ấm áp. Tôi chứng kiến thời bao cấp với cái nhìn của riêng tôi, vừa buồn cười vừa cay đắng, vừa giận vừa thương, vừa muốn quên đi vừa không thể không nhớ.

Ở đời có những thứ phải nhớ để không bao giờ lặp lại, trước khi chôn sâu vào dĩ vãng. Tôi viết cuốn tự truyện này để nhắc lại với bạn bè, người thân và gia đình tôi cái thời thật đáng ghét – thật đáng thương, thật đáng quên – thật đáng nhớ, giữa ngổn ngang những bi hài cay cực là những tấm lòng “sống để yêu nhau”. Tôi muốn gửi tới các con tôi và bạn bè của chúng, thế hệ 7x, 8x, 9x cái thời mà cha ông họ đã sống để họ yêu thêm thế hệ đi trước và tránh cho được những gì mà thế hệ trước đã lầm lạc.

Cuốn sách mà các bạn cầm trong tay là kí ức của riêng tôi, nó không thể đại diện cho kí ức của tất cả những ai đã sống trong thời này. Các bạn hãy xem đây là thời bao cấp dưới cái nhìn của tôi, trong trí nhớ của tôi mà thôi. Với người khác sẽ là cái nhìn khác, kí ức khác.

Cuối cùng xin thưa, để các bạn trẻ có thể hình dung thời bao cấp như thế nào, trong cuốn sách nhỏ này, tôi đã đưa rất nhiều ảnh thời bao cấp. Những bức ảnh được sưu tầm từ bạn bè, báo chí và Internet mà tôi không thể biết tác giả. Xin cáo lỗi và cảm ơn các nhà nhiếp ảnh đã để lại cho đời những bức ảnh đáng nhớ của một thời đáng quên này.

Ngô Minh


1. Chuyện làng tôi

Tôi sinh năm Kỷ Sửu (1949), đã sống trọn vẹn trong thời bao cấp với bao nhiêu vui buồn. Bây giờ cứ mỗi lần nghe ai kêu: “Chao ôi, răng mà khổ như thời bao cấp”, lòng tôi lại buồn và cứ nao nao nhớ. Cái thời của thiếu thốn và những tấn bi hài cười ra nước mắt. Nhiều chuyện lạ lùng, cười ra nước mắt của một thời khổ đau, nhiều chuyện độc đáo, chuyện thật như bịa. Nhưng đó lại là những năm tháng con người sống vô tư, trong sáng và thấm đẫm nghĩa tình.

Quảng Bình… khoai khoai toàn khoai!

Làng biển Thượng Luật của tôi ở góc biển Nam Quảng Bình, giáp huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị, chỉ cách sông Hiền Lương 20 cây số. Thời Pháp, bản đồ gọi tên các làng ven biển này bao giờ cũng gắn với chữ “luật”: Thử Luật, Tùng Luật (Vĩnh Linh), Liêm Luật, Thượng Luật, Hòa Luật (Quảng Bình)… Liêm Luật, Thượng Luật và một phần Hòa Luật sau này được gọi là xã Ngư Thủy, miền quê đã sinh ra rất nhiều anh hùng. Đó là Anh hùng trồng phi lao trên cát Ngô Xuân Mốc; Đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy anh hùng (thường gọi là C Gái, pháo tầm xa, nòng dài 105 ly); Trung đội dân quân thôn Tây Thôn; Đồn Biên phòng Ngư Thủy anh hùng, mấy lần dân quân bắn rơi máy bay Mỹ.

Từ xa xưa đến thời bao cấp, dân làng tôi làm hai nghề chính: đàn ông đánh cá; đàn bà con gái bán cá và trồng khoai sắn. Khoai trồng trên cát trắng trong như thủy tinh, thế mà củ to và bột bở, thơm lắm. Người ta trồng khoai rất công kỹ. Phải xới cát thành vồng, cho các loại phân xanh gọi là “bổi” như lá dương liễu (phi lao), lá cỏ hôi, hay rong biển dạt vào bờ, băm nhỏ ra, cho xuống, sau đó cho phân chuồng lên trên rồi mới dâm ngọn khoai. Một tháng sau lại tưới nước phân, nước tiểu. Nhà nào cũng có cái thùng chứa nước tiểu. Ai cũng phải tiểu vào đấy, dù đêm khuya rét mướt. Có chuyện vui. Có bà đi chợ Mai bảy tám cây số, buồn tiểu vẫn cố nhịn về tiểu vào cái thùng tiểu nhà mình, để tưới khoai. Nhịn lâu quá, không nén được, tè cả ra quần. Mất cả bãi nước tiểu, tiếc đứt ruột, lại phải giặt quần!

Cái ăn hàng ngày chỉ khoai và cá. Khoai lang được chế biến ra nhiều món, tùy theo mùa. Mùa hạ thì khoai lang luộc, canh khoai lang, khoai lang nướng; mùa đông thì khoai khô nấu xéo, khoai gieo nấu nhừ, khoai gieo xéo xôi… Để có khoai khô, khoai gieo, mùa hạ thu hoạch khoai, nhà nào cũng phải thức đêm để thái khoai, sáng phơi ra ba bốn nong. Phơi bốn năm nắng khoai mới khô rồi đổ vào chum đậy kín dự trữ. Để có khoai gieo, người ta chọn củ khoai ngon, to, dài, luộc lên, bóc vỏ, thái lát, phơi khô. Khoai gieo có thể làm lương khô cho các chuyến đi dài ngày, vì chỉ cần bỏ vào nước cho mềm là ăn được, không cần nấu.

Tôi nhớ hồi còn bé, làng tôi có trồng một giống khoai lang có tên là Tân Kỳ. Khoai Tân Kỳ củ to, dài, có cạnh, vỏ màu hồng sen, bột hơi vàng, ăn rất thơm, làm khoai gieo rất ngọt. Sau này tôi lớn lên, lấy vợ ở chính quê hương đã sinh ra giống khoai ấy: huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An! Mới hay con người có nhiều dây mơ rễ má trong cuộc đời lắm…

Thời chưa có sổ gạo, cả làng tôi ít nhà có cơm ăn, nên mới có câu “Giêng Hai khoai cà”. Người ta nhại câu ca từ của Hoàng Vân trong bài hát Quảng Bình quê ta ơi: “Quảng Bình… khoan khoan hò khoan” thành “Quảng Bình… khoai khoai toàn khoai”! Câu hát ấy còn mãi cho đến bây giờ.

Có một chuyện vui

Từ nhiều đời nay, làng tôi quanh năm nghèo đói. Không có nhà nào lợp ngói. Đa phần nhà ở như nhà tạm, không khác nhà chị Dậu trong Tắt đèn. Nhà tôi gọi là “giàu nhất làng”, cũng chỉ là ngôi nhà rường ba gian hai chái lợp tranh. Để có tranh lợp nhà cũng không phải dễ, chỉ có ở vùng Vịnh Mốc, Vĩnh Linh, sát giới tuyến. Phải chạy thuyền buồm cả buổi sáng vào Vịnh Mốc mới mua được. Hầu hết làm nhà bằng cột dương (thân cây phi lao) gọt nham nhở, mái lợp hay phên che toàn bằng cỏ rười, một loại cỏ chỉ mọc ở những chỗ ẩm trên cát, hình ống nhỏ, cao khoảng hơn mét, bứt về kẹp thành tranh lợp nhà. Cả làng đua nhau bứt cỏ rười về lợp mái nhà, đến nỗi cỏ không lớn kịp nữa.

Thứ cỏ rười ấy cũng đã vào thơ Phùng Quán mới oai chứ:
Cây cỏ rười chỉ mọc trên cát mặn
Nhà ngư dân cỏ lợp thay tranh
Bếp ngư dân cỏ cho lửa ấm
Khói cỏ rười mấy dặm biển còn thơm…

(Cây cỏ rười)

Nhà nào cũng giống nhà nào chỉ có nền cát. Không ai đắp nền nhà bằng đất thịt hay lót gạch, trong nhà cũng không có sàn hay ván, chỉ cát và cát và mấy chiếc giường tre ọp ẹp. Không câu nệ chỗ ngủ, đâu cũng được. Ngủ trên sân cát, ngủ ngoài bãi biển, ngủ trên thuyền… Chỉ một manh chiếu rách khi đắp khi trải, là ngủ.

Thời đó không nhà nào có hố xí. Ai muốn vệ sinh thì ra bãi cát, hay lội ra biển. Cát mênh mông, ghé vào đâu đó nơi gốc dương, gốc dứa dại là xong.

Ơn sổ gạo

Làng tôi sống lắt lay hàng trăm năm như thế cho đến một ngày vô Hợp tác xã. Đó là đầu năm 1959. Một cuộc đổi đời. Ba Hợp tác xã nghề cá xã Ngư Thủy hồi đó có tên rất oách: Hợp tác xã Tương Lai, Hợp tác xã Quyết Thắng, Hợp tác xã Phấn Đấu. Tên oách thế nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có nghề bủa xăm (lưới trũ), câu mực, lưới rê, rồi nghề giã ruốc (khuyếc, ngoài Bắc gọi là con moi) ven bờ với loại thuyền nhỏ mà quê tôi gọi là bơ. Chỉ ra khơi cách bờ khoảng năm bảy cây số là hết cỡ, không ai dám đi khơi hơn vì sợ giông tố không chèo vô bờ kịp. Không đánh bắt được cá lớn, quanh năm chỉ có cá cơm bạc, cơm than, cá nục, cá trích, cá ve, cá duội và mực…

Điều hệ trọng nhất làm thay đổi chất lượng cuộc sống làng tôi là khi Chính phủ xếp ngư dân và diêm dân (dân làm muối) vào loại “tiểu thủ công nghiệp”, nên được cấp sổ gạo và tem phiếu vải. Đó là năm 1963. Ai là xã viên hợp tác đều được cấp sổ gạo, phiếu vải loại N, 4 mét một năm. Thấy có gạo, cả làng chen nhau xếp hàng nộp đơn vô hợp tác, chẳng phải vận động vận điếc gì. Đang khi không có gạo ăn, suốt ngày “khoai khoai toàn khoai”, tự dưng mỗi lao động đi biển được 21 ký gạo, lao động phụ ở nhà 11 ký, trẻ con 9 ký một tháng thì mừng như được vàng. Đó là một cuộc đổi đời ngoạn mục mà làng biển Thượng Luật quê tôi được bao cấp mang lại!