Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



Giai đoạn 1954 – 1975
Giai đoạn 1954–1975 là khoảng thời gian của một cuộc chiến tranh ý thức hệ — quốc gia và cộng sản — đồng thời cũng là cuộc huynh đệ tương tàn với áp lực của các cường quốc trong bối cảnh chiến tranh lạnh.
Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến 17. Cuộc di cư năm 1954 đã làm thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật miền Nam. Cho đến thời điểm ấy, đời sống văn nghệ chủ yếu do người địa phương đảm nhận, với các trung tâm sinh hoạt mạnh như Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ, và nhất là Sài Gòn.
Sài Gòn, thủ đô của Nam phần, vốn đã là nơi sôi động của báo chí và văn học nghệ thuật từ đầu thế kỷ. Trong hai mươi năm văn học này, nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng được hình thành và tập trung sinh hoạt qua các tạp chí như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa, Văn Học, v.v…
Ở giai đoạn đầu (1954–1963), văn nghệ miền Nam phát triển trong bầu không khí tự do, tin tưởng và cởi mở. Nhưng sang giai đoạn sau (1964–1975), dù đa dạng hơn, văn nghệ cũng trở nên đa tạp, phân hóa, đôi khi bạo động trong một xã hội thời chiến – khi các giá trị văn hóa dần bị xói mòn.
Sau những tranh luận về ý thức hệ chính trị trong hai năm đầu (1954–1955), người làm văn nghệ mong muốn hướng đến nghệ thuật thuần túy – “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Tuy nhiên, sau cùng, nghệ thuật ấy cũng trở thành một công cụ của chính trị thời cuộc. Trong hoàn cảnh đó, tạp chí Sáng Tạo ra đời.
Số đầu tiên phát hành vào tháng 10 năm 1956, kéo dài được 31 số và ngừng vào tháng 9 năm 1959. Đến tháng 7 năm 1960, tạp chí tái bản bộ mới nhưng chỉ ra thêm được bảy số.
Mai Thảo, trong số ra mắt Sáng Tạo, đã phát biểu rằng “văn nghệ từ thủ đô Hà Nội đã chuyển vào thủ đô văn hóa Sài Gòn.” Câu nói có phần chủ quan, nhưng cũng phản ánh một diễn dịch khác về cơ cấu xã hội và chính trị lúc bấy giờ – một xã hội bị động, phải đối phó tức thời với kẻ thù cộng sản.
Đảng Cần Lao được tổ chức như cơ cấu của đối phương, đòi hỏi hy sinh, một lòng, một mục đích – và với những phương tiện tương đương. Sáng Tạo không đi ra ngoài quỹ đạo đó. Tạp chí này ra đời với ý hướng làm mới văn học nghệ thuật thời bấy giờ, trở thành đại diện cho một nền “nghệ thuật hôm nay”.
Khi nói đến nhóm Sáng Tạo, người ta thường nghĩ đến nhiều tên tuổi:
- Mai Thảo – người “đầu đàn”, làm mới văn xuôi, tân cải hình thức;
- Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Quách Thoại – những người tiên phong trong thơ tự do;
- Nguyên Sa – với thơ tình tân kỳ, hiện đại;
- Cung Trầm Tưởng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Trần Tuấn Kiệt – làm mới thể thơ lục bát;
- Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Văn Trung (Hoàng Thái Linh) – người lập thuyết và giới thiệu triết học Âu châu;
- cùng các cây bút khác: Doãn Quốc Sỹ, Thảo Trường, Viên Linh, Người Sông Thương (Nguyễn Sỹ Tế), Trần Dạ Từ, Thạch Chương (Cung Tiến), Vương Tân (Hồ Nam), Hoàng Anh Tuấn, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Mặc Đỗ, Duy Thanh, Lữ Hồ, Trần Lê Nguyễn…
Khác với Tự Lực Văn Đoàn hay Hàn Thuyên thời tiền chiến, Sáng Tạo không phải là một văn đàn khép kín. Các văn nghệ sĩ hợp tác trong một giai đoạn, rồi tách riêng, tiếp tục làm văn nghệ theo khuynh hướng riêng.
Tạp chí Sáng Tạo có công lớn trong việc làm mới văn học, cả về văn xuôi lẫn thơ, về hình thức, thể cách và nội dung.
Thanh Tâm Tuyền cổ vũ thơ tự do – không vần, bất ngờ về ý và chữ. Ông cho xuất bản Tôi Không Còn Cô Độc (1956) và Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (1964). Thơ của ông dùng ngôn ngữ để phá vỡ chính ngôn ngữ, để ý tưởng trôi chảy tự do như dòng chảy vô tri của sự vật nguyên thủy.
Nguyên Sa xem thơ tự do là “thơ phá thể”; trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn: “Thơ hôm nay không dừng ở thơ phá thể – thơ hôm nay là thơ tự do,” và đỉnh cao của nó là thơ văn xuôi.
Sau khi thơ tự do được đón nhận, nhóm Sáng Tạo lại tiến thêm một bước: phủ nhận giá trị của thơ văn tiền chiến và kháng chiến. Mai Thảo và nhóm bạn của ông rất dị ứng với quá khứ – điều này đã khiến nhiều văn nghệ sĩ, đặc biệt ở Huế, lên tiếng phản đối.
Dẫu vậy, không thể phủ nhận rằng Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa đã khai phá, mở đường cho dòng Thơ Tự Do – một vận động bắt nguồn từ thời kháng chiến, như phản ứng lại thơ mới và thơ tiền chiến.
Thơ lục bát cũng được hiện đại hóa: với ngôn ngữ tân kỳ, hình ảnh bất ngờ, cách ngắt câu mới lạ. Khởi xướng bởi Cung Trầm Tưởng, tiếp nối có Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly…
Mai Thảo đóng góp một cách làm văn mới: sáng tạo về ngôn từ, chấm câu, văn tùy bút và cảm giác. Ông dùng chữ trang trọng, ngắt câu theo tình cảm và diễn tiến câu chuyện – “viết văn như vẽ tranh”: có chỗ chấm phá, chỗ chi tiết, chỗ nâng cao, chỗ hạ thấp.
Những tác phẩm như Đêm Giã Từ Hà Nội, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời, hai tập Tùy Bút và Căn Nhà Vùng Nước Mặn là những thử nghiệm thành công. Dù ngày nay đã quen thuộc, nhưng vào những năm 1956–1962, cách viết của Mai Thảo từng khiến không ít người “chau mặt”!
Thanh Tâm Tuyền trong Bếp Lửa (1957) và Khuôn Mặt (1964) lại thể hiện cái nhìn bi quan: đời là vô nghĩa toàn diện, con người “hôm nay” lên đường – lữ hành, tự thoát khỏi khuôn sáo, nhưng cuối cùng vẫn bị cái phi lý bủa vây.
Thảo Trường thì dùng những tra vấn khắt khe của người trí thức có đức tin để nhìn con người và chiến tranh.
Nếu Mai Thảo làm “xiếc với chữ”, Thanh Tâm Tuyền khiến chữ sắc lạnh, thì Thảo Trường “nung lửa cho từng chữ dùng.”
Sáng Tạo đã mở đường cho các nhóm văn nghệ sau: Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật…
Tạp chí này có công gây hứng khởi và khai phá cái mới.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Văn năm 1971, Mai Thảo thừa nhận:
“Tờ Sáng Tạo là của những thí nghiệm và những mở đường… Tôi không nhìn Sáng Tạo như nơi phát xuất và hình thành một dòng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách thế nào thì có.”
Mười lăm năm sau, ông hồi tưởng:
“Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đã bắt đầu… Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực.”
Tựu trung, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Tô Thùy Yên là những người thành công và mới mẻ nhất.
Tuy vậy, xét cho cùng, Mai Thảo và Tô Thùy Yên vẫn chưa rời được cái nền cũ, hồn xưa; Quách Thoại, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế vẫn còn khuôn phép hơn; còn Duy Thanh, Thạch Chương dừng lại ở những thử nghiệm hiện sinh buông thả như người Âu châu.


