Tải FREE sách Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

LỜI NÓI ĐẦU

Tập võ, đánh cờ tướng, tắm hơi, câu cá, chơi hoa kiểng, tìm lạc thú yêu đương, du lịch, uống rượu với bạn, đọc sách về Thiền… là những phương thức có hiệu quả để tìm sự thoải mái, thấy mình được hạnh phúc, không còn cô độc trong xã hội phức tạp — nơi con người càng ngày càng cô độc.

Thiết tưởng, những hình thức “tu luyện” nói trên tuy hữu hiệu, nhưng chỉ là giải trí nhất thời. Có lẽ ta nên đọc sử, đặc biệt là lịch sử nước nhà.

Gần đây, những danh từ “Về nguồn”, “Tìm dân tộc” thường được nhắc đến. Nhưng về nguồn không chỉ để thưởng ngoạn là xong. Mỗi hình thức văn nghệ, mỗi vũ điệu, mỗi lá cây chỉ đẹp trong bối cảnh lớn của nó.

Cái vỏ sò, vỏ ốc nằm trên bãi cát bao la của đại dương ngoài xa — biển không một cánh buồm, bãi cát không in dấu chân người. Hoa sen ở trong đầm, giữa biển cỏ hoặc trong ruộng lúa bát ngát, bên em bé ở trần, bơi xuồng, bụng hơi đói.

Ta chỉ hết cô độc, hết bị căng thẳng thần kinh khi tìm ra cái cớ để giải thích nỗi buồn vô cớ. Cái cớ ấy, có lẽ vì ta chưa hòa hợp, chưa dính liền được với bối cảnh hiện tại — như cái vỏ ốc trên bãi, hoặc bông sen dính rễ dưới bùn.

Chúng ta đang sống trong lịch sử, và hiện tại quả thật dính dấp với quá khứ. Nói gì thì nói, khi tìm hiểu một người, người ta phải làm công việc cần thiết là sưu tra lý lịch.

Người Việt Nam không thể nào hãnh diện đúng mức khi đọc tiểu sử của ông Hoa Thịnh Đốn, ông Nã Phá Luân, hoặc ông Khổng, ông Thích Ca — mặc dầu đó là những người “của nhân loại”.

Đọc sách lịch sử Tây tiến ở Mỹ Quốc, xem phim về anh hùng phiêu lưu khẩn hoang chỉ là những phút mua vui hoặc nghiên cứu đứt đoạn. Không thể dùng lịch sử nước khác để làm lịch sử của mình được.

Ta trở về với bối cảnh của ta. Trở về là hành động tích cực, chớ không phải thưởng ngoạn, thụ động. Đi ngang vùng đất ngày xưa là thành Chí Hòa, ngắm những đám cỏ xanh rờn vừa vươn lên khi mùa mưa trở lại, ta không khỏi ngậm ngùi; nhưng nếu bứng vài cụm cỏ trên nền đất đầy máu và nước mắt ấy đem về trồng trong chậu thì hóa ra vô duyên — tạm thời giải khây, nhưng tạo ra một nỗi cô độc mới.

Đến vùng Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, ngâm câu thơ “Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng” của ông Học Lạc vẫn là chưa đủ, cũng như khi qua đò máy Mỹ Thuận hoặc đò máy Vàm Cống vào buổi mưa lất phất, tưởng rằng cảnh đẹp “Khói sóng Tiêu Tương” hiện về.

Phải là một sự chuyển mình, nhập thân vào bối cảnh mới. Ngày xưa là bóng dáng thằng bé chăn trâu, lưng trần phơi nắng, thất học; ngày nay, ngày mai — bối cảnh là ruộng lúa, máy cày, và hoa màu phụ.

Đầu đề LỊCH SỬ KHẨN HOANG MIỀN NAM quá lớn, đòi hỏi sự làm việc cần cù, kiên nhẫn, lâu dài của một tiểu ban, một nhóm có thẩm quyền. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi đánh bạo thử vạch một lối để trèo núi cao.

Chắc chắn có nhiều lối khác để đi tới đỉnh núi. Chúng tôi chỉ mong dẹp bớt một mớ sỏi gai, để thấy bóng dáng đỉnh núi.

Tài năng, kiến thức và thời giờ làm việc của một người có hạn. Cũng may là được giúp đỡ tận tình, đặc biệt của các viên chức ở Thư viện Quốc gia, Thư viện Khảo cổ, Thư viện Hội Cổ học Ấn-Hoa, cùng một số bạn đã giúp đỡ vài tài liệu quan trọng.

Dám mong độc giả xem đây là bản khởi thảo. Sau này, đất nước hòa bình, phương tiện dồi dào, nhiều vị thức giả và các bạn trẻ hiếu học sẽ đi sâu vào đề tài này để những đức tính lớn của dân Việt được phát hiện bi hùng hơn, gần sự thật hơn.

Tháng 7 năm 1973 — Sơn Nam


LƯU Ý

Về chú thích

Xin tạm viết tắt như sau:

  • GĐTC: Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo, do Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1972, gồm ba tập Thượng – Trung – Hạ.
    Ví dụ: GĐTC Trung, 17 tức là tập Trung, trang 17.
  • QTCB: Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu, nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn, 1972.
  • MMCY: Minh Mệnh Chánh Yếu, bản dịch của Ủy ban Dịch thuật Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, 1972 (hai tập).
  • ĐNNTC: Đại Nam Nhất Thống Chí – Lục Tỉnh Nam Việt, bản dịch Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, 1959 (hai tập Thượng và Hạ).

Những tài liệu của Nha Văn khố Sài Gòn có số hiệu ghi trong văn kiện, ví dụ:

  • SL.1678 = Services Locaux, số 1678
  • CP.615 = Conseil Privé, số 615

Số SL.1742 là tài liệu chữ Nho, đa số đời Minh Mạng;
SL.1755 đa số thuộc đời Tự Đức;
SL.1743 gồm loại linh tinh đời Minh Mạng – Thiệu Trị – Tự Đức.

Về các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Cần Thơ được đề cập riêng, thí dụ:

  • E/7 là hộp tài liệu thuộc văn khố Rạch Giá.
  • T/1 là hộp tài liệu lưu trữ của tỉnh Cần Thơ.

Về địa danh, tên người

Chúng tôi dùng ranh giới và địa danh cũ (trước 1945).
Ví dụ: Trà Vinh là vùng tỉnh Trà Vinh cũ; Rạch Giá là Rạch Giá thời Pháp thuộc; Cà Mau là quận Cà Mau, thuộc tỉnh Bạc Liêu xưa.

Về tên người, chúng tôi không phân biệt Nguyễn Ánh và Gia Long tẩu quốc, vì đó là thói quen được chấp nhận.

Danh xưng hành chính như “Tham biện”, “Hạt”, “Tỉnh”, “Inspection”, “Province” được dùng theo cách phổ thông thời ấy, không phân biệt giai đoạn quân sự hay dân sự.

Một số thuật ngữ như thuế thân, công sưu, cai tổng, hội đồng quản hạt… có thể thiếu chú thích chi tiết để tránh rườm rà.

Phần trọng yếu của việc khẩn hoang là làm ruộng. Chúng tôi không đề cập đến việc khai thác lâm sản, hải sản, ngư nghiệp hay đồn điền cao su, trà…

Sơn Nam


NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

Đồng bằng sông Cửu Long, sông Ménam và Irrawaddy là ba trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới, có dư để xuất cảng. Việt Nam, Xiêm và Miến Điện đều là quốc gia nông nghiệp, đa số dân sống bằng nghề trồng lúa.

Ba quốc gia này có nhiều điểm chung:

  • Lãnh thổ phát triển dần từ Bắc xuống Nam.
  • Biết làm ruộng cấy ở đồng sâu, đạt năng suất cao hơn ruộng tỉa ở đất khô.
  • Mức sống dân cư thấp kém.

Nam tiến không phải là “mãnh lực huyền bí” riêng của dân tộc Việt Nam. Các dân tộc chịu ảnh hưởng Ấn Độ khác cũng đạt kỹ thuật cày sâu cuốc bẫm không kém ta.

Người Việt gặp dân Miên vốn có nền văn hóa cổ kính. Thế kỷ XIII, người Miên đã tìm ra giống lúa và kỹ thuật dẫn thủy nhập điền, thu hoạch 3–4 vụ/năm.

Cuộc Nam tiến của người Xiêm và người Miến thuận lợi về địa lý — sông Ménam, Irrawaddy dễ thông thương, trong khi Hồng Hà và sông Cửu Long nhiều thác đá. Từ hạ lưu sông Hồng, dân Việt lần hồi theo các đồng bằng ven biển đến hạ lưu sông Đồng Nai, Cửu Long.

Tuy đặt chân trên đất Cao Miên, nhưng đối thủ đáng gờm của người Việt lại là người Xiêm — đang nuôi tham vọng đô hộ Vạn Tượng, Cao Miên, Mã Lai. Xiêm quốc khi ấy hùng mạnh, có tướng giỏi, quân tinh nhuệ.

Người Việt giữ được thế chủ động trong hoàn cảnh gay go ấy.

Khi đặt chân tới đồng bằng sông Cửu Long, nước Việt bị chia cắt từ sông Gianh; công cuộc khẩn đất, giữ đất lúc đầu chỉ do dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác.

Ưu thế của người Việt không nằm ở kỹ thuật canh tác cao, mà ở tổ chức chính trị và quân sự. Bộ máy hành chính chúa Nguyễn khá hoàn hảo, giúp theo dõi địa phương xa xôi; quân đội có thể tập trung nhanh khi cần.

Đơn vị xã hội nhỏ nhất — thôn ấp — đủ khả năng tự trị. Các tổ chức đồn điền tự quản về kinh tế và an ninh.

Quân Xiêm hùng mạnh nhưng đi xa thì mất hiệu năng. Cao Miên suy nhược, vua chúa kém năng lực, dân chúng ly tán, thường bị Xiêm bắt làm nông nô.

Vua chúa Việt thúc đẩy khẩn hoang vì:

  • Mở rộng địa bàn thống trị, bảo vệ kinh đô.
  • Tăng thuế điền, thuế đinh.
  • Giảm nạn đói, tránh nội loạn.
  • Tăng dân số, thêm lính tráng, dân xâu.

Về dân, khẩn hoang là hành động tích cực, không thụ động chờ thời vận.

Muốn khẩn hoang thành công phải có:

  1. Thiên nhiên thuận lợi – đất không quá thấp (ngập) hay quá cao (thiếu nước).
  2. Nguồn nước ngọt – cho người, trâu bò, canh tác.
  3. Vốn liếng gia đình – đủ lúa ăn, nông cụ, ghe xuồng, thuốc men, trầu cau, vốn nuôi heo gà…
  4. Hợp quần xã hội – vì sức một người không đủ:
    • Ruộng giữa đất hoang dễ bị chim chuột phá, nên nhiều nhà cùng canh tác liên ranh nhau.
    • Thời vụ cấy gặt lệ thuộc mùa mưa, đòi hỏi tập trung nhân công, đổi công, giúp nhau.

Vùng định cư phải liên lạc dễ dàng, gần chợ, nơi tiêu thụ, có người cho vay, nơi học, đình chùa, miễu, hát xướng.

Nhà cửa, tính mạng dân phải được bảo vệ, chống trộm cướp, loạn lạc.

Đơn vị xã hội tối thiểu vẫn là làng.

Khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long là một cuộc vận động lớn, toàn diện — về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.