Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ngày 27-01-1973 tại Pari, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, gọi tắt là Hiệp định Pari về Việt Nam, đã được ký kết.
- Nội dung chính: Hiệp định đã buộc Hoa Kỳ phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội Hoa Kỳ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
- Ý nghĩa: Văn kiện pháp lý quốc tế này là kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao cam go nhất, lâu dài nhất trong lịch sử của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Việc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Pari là một thắng lợi cực kỳ to lớn, tạo ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Dịp xuất bản: Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Hiệp định Pari được ký kết (Tháng 01 năm 2018), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kỳ trước Hội nghị Pari.
- Tác giả:
- Lưu Văn Lợi (Nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao). Ông là chuyên viên trong đoàn đàm phán của các đồng chí Lê Đức Thọ và Xuân Thủy với đoàn của Hoa Kỳ do Henri Kítxinhgiơ dẫn đầu tại Pari.
- Nguyễn Anh Vũ (Nguyên Đại sứ nước ta tại Italia).
- Nội dung cuốn sách: Giới thiệu những cuộc vận động ngoại giao của Tổng thống Hoa Kỳ L.B. Giônxơn, nêu lên những sự kiện chính liên quan tới những cái được gọi là “sáng kiến hòa bình” của Giônxơn trong những năm 1964-1967, trước Hội nghị Pari.
- Giá trị:
- Cung cấp nhiều tư liệu phong phú và quý giá, lần đầu tiên được công bố về các cuộc tiếp xúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng nhiều cán bộ ngoại giao nước ta.
- Giúp người đọc nhìn lại một cách bao quát các hoạt động ngoại giao của Nhà Trắng trong kế hoạch chiến tranh của Giônxơn, từ đó càng hiểu hơn lập trường của Việt Nam là trước sau như một, nhất quán và ngời sáng.
- Là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị đối với những ai quan tâm đến lịch sử đấu tranh ngoại giao của dân tộc, các nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh, và đặc biệt bổ ích cho các cán bộ hoạt động đối ngoại.
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
LỜI NÓI ĐẦU (của Các Tác giả)
Cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam được gọi là chiến tranh hạn chế về phạm vi chiến trường, nhưng về quy mô, nó là một cuộc chiến tranh tổng lực (dù không dùng vũ khí nguyên tử).
- Quy mô: 2.700.000 người Mỹ đã phục vụ ở Việt Nam. 300 tỷ USD chi phí trực tiếp cho chiến tranh.
- Nghiên cứu khoa học: Các viện khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ đã được huy động nghiên cứu những vũ khí mới (bom bi, “cây nhiệt đới”, hệ thống điện tử, chiến tranh sinh thái). Các nhà khoa học xã hội nghiên cứu về sự tác động của chiến lược, chiến thuật, làm biến dạng xã hội, tìm kiếm hòa bình.
- Ví dụ: Chuyến đi Hà Nội của ông Ôbrắc và Máccôvích năm 1967 được cho là sự thử nghiệm học thuyết về khoa học các cuộc xung đột của Giáo sư Sêlinh trong quá trình thương lượng với Việt Nam.
Tổng thống L.B. Giônxơn đã ý thức được rằng, song song với cuộc chiến tranh thuần túy quân sự cần phải có cuộc chiến tranh về ngoại giao, và mỗi bước leo thang chiến tranh phải đi cùng với những hoạt động ngoại giao thích hợp theo một kế hoạch nhịp nhàng. Đây là một mảng quan trọng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam nhưng chưa được đề cập nhiều.
- Mục đích cuốn sách: Các tác giả không có ý định viết toàn bộ lịch sử ngoại giao hay toàn bộ quá trình thương lượng giữa Hà Nội và Oasinhtơn.
- Phạm vi: Chỉ nêu lên những sự kiện chính liên quan tới những cái được gọi là “sáng kiến hòa bình” của Giônxơn trong thời gian 1964-1967, trước Hội nghị Pari, dưới dạng kể chuyện.
- Giá trị: Các sự kiện giúp người đọc nhìn lại một cách bao quát các hoạt động ngoại giao của Nhà Trắng trong kế hoạch chiến tranh của Giônxơn, từ đó càng hiểu hơn lập trường của Việt Nam là trước sau như một, nhất quán và ngời sáng.
- Các vấn đề trọng tâm: Xoay quanh các vấn đề của một giải pháp về Việt Nam (lập trường của mỗi bên, điều kiện để đi tới nói chuyện, việc rút quân Mỹ, việc thống nhất nước Việt Nam, …).
- Niềm tự hào: Các cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, và các đồng chí khác với các nhân vật quốc tế đều thể hiện sự phân tích sáng suốt, lý lẽ đanh thép nhưng có tình có lý, làm ta tự hào về đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam và sự kế tục truyền thống ngoại giao vẻ vang của tổ tiên.
- Lời cảm ơn: Tác giả cảm ơn sự khuyến khích của đồng chí Cố vấn Phạm Văn Đồng, sự giúp đỡ của Bộ Ngoại giao, và sự cổ vũ của Viện Quan hệ Quốc tế (nay là Học viện Ngoại giao).
Xuân Canh Ngọ năm 1990 Các tác giả
DI SẢN CỦA BỐN ĐỜI TỔNG THỐNG
Tổng thống L.B. Giônxơn chịu trách nhiệm về quyết định tiến hành cuộc chiến tranh hạn chế ở miền Nam và chiến tranh bằng không quân ở miền Bắc. Tuy nhiên, việc đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Việt Nam còn là trách nhiệm của các vị tiền nhiệm của ông, những người từng bước đã tăng cường sự dính líu của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Bối cảnh chung
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hoa Kỳ chấp nhận sự thống trị của Pháp ở Đông Dương.
- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa quân phiệt Nhật sụp đổ, chủ nghĩa thực dân Pháp thất bại, phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương thắng lợi.
- Với chủ trương “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản”, bao vây Liên Xô và Trung Quốc, Hoa Kỳ ngày càng dính líu sâu vào Lào và Việt Nam, sau cuộc chiến tranh Triều Tiên.
1. Tổng thống Phrăngclin Rudơven (Franklin D. Roosevelt)
- Nhiều lần phê phán chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương.
- Tại Hội nghị Ianta tháng 02-1945, Rudơven đề nghị thiết lập sự ủy trị ở Đông Dương dưới hình thức một hội đồng quản trị (gồm đại biểu Pháp, người Đông Dương, Philíppin, Trung Quốc, Liên Xô). Đề nghị bị Anh phản đối.
2. Tổng thống Truman (Harry S. Truman)
- Lên thay Rudơven trong bối cảnh phong trào cách mạng sôi sục 1944-1945.
- Chủ yếu lo giúp đỡ chế độ Tưởng Giới Thạch và chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc.
- Đồng ý để quân Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở lên) và quân Anh từ vĩ tuyến 16 trở xuống, với ý đồ lật đổ chính quyền nhân dân do Việt Minh dựng lên.
- Phải lùi một bước, chịu để thực dân Pháp trở lại Đông Dương.
- Giữa năm 1950, phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Hoa Kỳ (MAAG) được đưa sang Việt Nam (với 342 sĩ quan và binh lính Mỹ).
- Trong tài khóa năm 1954, viện trợ của Hoa Kỳ cho Pháp ở Đông Dương tăng lên 1 tỷ USD.
3. Tổng thống Aixenhao (Dwight D. Eisenhower)
- Sau khi Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký (26-7-1953), Aixenhao lần đầu tiên chính thức trình bày thuyết đôminô, dự đoán Miến Điện (Mianma), Ấn Độ, Inđônêxia sẽ bị uy hiếp nếu cộng sản thắng ở Đông Dương.
- Chính quyền Aixenhao sợ một cuộc chiến tranh thứ hai với Trung Quốc, nhưng vẫn chủ trương răn đe và ngăn chặn Trung Quốc ở Đông Nam Á.
- Chính sách là đe dọa Trung Quốc, động viên và tìm cách giúp đỡ Pháp tiếp tục chiến tranh.
- Ngày 12-01-1954, J.F. Đalét tuyên bố học thuyết “trả đũa ồ ạt”, hàm ý răn đe Trung Quốc.
- Trước tình hình Điện Biên Phủ nguy cấp:
- Aixenhao phê chuẩn kế hoạch của đô đốc Rátpho (Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ), đề nghị Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương (dùng 200 máy bay của không quân Hoa Kỳ tấn công các căn cứ của Quân đội nhân dân Việt Nam).
- Tán thành chủ trương không để Đông Dương rơi vào tay cộng sản, Aixenhao quyết định chỉ can thiệp nếu có được hai điều kiện:
- Được sự ủng hộ của các nước đồng minh, trước hết là nước Anh.
- Pháp phải trao hoàn toàn độc lập cho các nước Đông Dương.
- Aixenhao còn tuyên bố sẽ không can thiệp nếu Quốc hội không tuyên chiến.
- Đầu tháng 4-1954, dù Chính phủ Pháp yêu cầu hành động, Oasinhtơn đã quyết định không hành động.
- Đalét muốn thuyết phục Pháp tiếp tục chiến đấu với một liên minh chống Cộng do Hoa Kỳ cầm đầu (quốc tế hóa cuộc chiến tranh Đông Dương), nhưng Anh kiên quyết phản đối vì sợ làm hỏng thời cơ đem lại hòa bình ở Hội nghị Giơnevơ.
- Một số quan chức Hoa Kỳ vẫn muốn can thiệp bằng không quân và hải quân với điều kiện mới là các cố vấn Hoa Kỳ ở Việt Nam phải được giữ trách nhiệm to lớn trong việc huấn luyện các lực lượng của chính phủ thân Pháp và được “chia sẻ trách nhiệm trong việc vạch kế hoạch quân sự với người Pháp”. Tuy nhiên, Pháp không muốn kéo dài chiến tranh và cũng không muốn chia sẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ.


