Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



LỜI TỰA (Dành cho cuốn Đông Phương luận của Edward Said)
Bối cảnh và Cảm nghĩ Cá nhân
- Thời điểm: Chín năm sau khi viết lời hậu từ cho cuốn Đông Phương luận (Orientalism) vào mùa xuân năm 1994. Cuốn sách gốc được xuất bản năm 1978.
- Sự tiếp nhận: Tác giả vẫn ngạc nhiên vì cuốn sách tiếp tục được thảo luận và dịch sang 36 thứ tiếng trên khắp thế giới, bao gồm cả tiếng Do Thái và tiếng Việt (với sự bảo trợ của Úc).
- Mục đích ban đầu: Đông Phương luận là một tác phẩm bàn về văn hóa, ý tưởng, lịch sử và quyền lực, chứ không phải thuần túy về chính trị Trung Đông. Nó mô tả phương thức tái hiện “Phương Đông” và sự phức tạp căn bản trong hoàn cảnh ra đời của nó.
- Nguồn cảm hứng trí thức: Tác giả khẳng định hoạt động tri thức của mình thành hiện thực là nhờ cuộc sống trong tư cách Giáo sư Đại học (Đại học Columbia), nơi ông giảng dạy về khoa học nhân văn chủ yếu của châu Âu và Mĩ.
- Mất mát và Kiên trì: Tác giả bày tỏ nỗi buồn trước cái chết của hai người thầy quan trọng là Eqbal Ahmad và Ibrahim Abu-Lughod (người được đề tặng sách), nhưng vẫn kiên trì tiếp tục công việc với niềm tin vào tiến trình giải phóng và khai sáng đang tiếp diễn.
Khái niệm “Phương Đông” và “Phương Tây”
- Tính nhân tạo của khái niệm: Tác giả nhấn mạnh rằng chữ “Phương Đông” và khái niệm “Phương Tây” không có tính ổn định nào về mặt bản thể luận. Mỗi từ ấy đều do cố gắng của con người tạo ra, một phần là để khẳng định, một phần là để nhận dạng “Cái Khác” hay “Kẻ Khác”.
- Thao túng: Những hư cấu tuyệt đỉnh đó dễ dàng bị thao túng và vận dụng nhằm mục đích điều khiển những cơn mê đắm tập thể, đặc biệt trong thời đại hiện tại.
- Lập luận cốt lõi: Lịch sử là do những con người nam nữ làm ra, nó có thể bị phá đi và viết lại, với những sự biến dạng được dung thứ, sao cho “miền Đông” (East) và phương Đông (Orient) “của chúng ta” trở thành “của chúng ta”, sở hữu của chúng ta và chịu sự chỉ đạo của chúng ta.
Bối cảnh Lịch sử Đương đại và Sự Chia rẽ
- Hỗn loạn đương đại: Cuốn sách liên quan chặt chẽ đến các động năng đầy hỗn độn trong lịch sử đương đại, đặc biệt là ở Trung Đông:
- Nội chiến Libăng.
- Thất bại của tiến trình hòa bình Oslo.
- Cuộc nổi dậy thứ hai của nhân dân Palestine (intifada) và sự chiếm đóng của Israel.
- Hiện tượng đánh bom tự sát.
- Vụ 11/9 và hệ quả là các cuộc chiến của Mĩ tại Afghanistan và Iraq.
- Cuộc xâm lược đế quốc và chiếm đóng phi pháp không được chuẩn thuận của Anh và Mĩ ở Iraq.
- “Xung đột của các nền văn minh”: Tất cả những điều này là một bộ phận của cái được giả định là xung đột không khoan nhượng của các nền văn minh.
Sự suy giảm hiểu biết ở Mĩ
- Thái độ cứng rắn: Tác giả than thở rằng sự hiểu biết chung ở Mĩ về Trung Đông, người Arập và Hồi giáo đã không cải thiện, mà trở nên cứng rắn hơn.
- Sự ngạo mạn: Thói quen giản lược hóa mang tính hạ nhục và lối nghĩ sáo mòn của kẻ ngạo mạn đắc thắng ngày càng siết chặt hơn, kết hợp với việc khinh rẻ mang tính đơn giản hóa đối với những ai bất đồng và những “Kẻ Khác”.
- “Thay đổi bản đồ Trung Đông”: Tác giả chỉ trích các quan chức Mĩ nói sẽ thay đổi bản đồ Trung Đông, làm như họ có thể xóc lui xóc tới các xã hội có từ cổ xưa như các hạt lạc trong một cái lọ.
- Sự khác biệt về tri thức:
- Hiểu biết thật sự: Kết quả của sự hiểu biết, thông cảm, nghiên cứu kĩ lưỡng và phân tích khách quan.
- Hiểu biết hiếu chiến: Bộ phận của một chiến dịch tổng thể nhằm tự khẳng định mình, hiếu chiến và gây chiến.
Vai trò của giới học giả
- Thảm họa tri thức: Cuộc chiến tranh đế quốc ở Iraq do một nhóm nhỏ quan chức Mĩ không do dân bầu ra (diều hâu con) gây ra vì những lí do ý hệ liên quan đến sự thống trị thế giới, được biện giải bởi các nhà Đông Phương luận đã phản bội thiên chức học giả của họ.
- Chuyên gia hiếu chiến: Những người có ảnh hưởng lớn đối với Lầu Năm Góc và Hội đồng An ninh Quốc gia như Bernard Lewis và Fouad Ajami, những kẻ đã giúp các phần tử diều hâu Mĩ nghĩ về những hiện tượng như tâm trí người Arập và sự suy thoái của đạo Hồi.
- Lập luận đế chế: Mọi đế chế đều nói rằng mình không giống các đế chế khác, rằng mình có sứ mệnh khai sáng, văn minh hóa, đem lại trật tự và dân chủ, và luôn luôn có một dàn hợp xướng của những người trí thức sẵn lòng nêu những luận điểm nhằm làm cho ta yên lòng.
- Căn nguyên của chiến tranh Iraq: Nếu không có một ý thức được tổ chức tốt cho rằng những người ở vùng đó không giống “chúng ta” và không hoan nghênh các giá trị của “chúng ta” – điều cốt lõi của giáo điều Đông Phương luận truyền thống – thì đã không có chiến tranh.
Đóng góp của Mỹ vào Diễn ngôn Đế chế
- Ngôn từ chuyên ngành: Đóng góp đặc biệt của Mỹ vào diễn ngôn của đế chế là ngôn từ chuyên ngành của các chuyên gia chính sách.
- Thông điệp cốt lõi: Họ không cần dùng ngôn ngữ Arập, Ba Tư hay Pháp để thuyết giảng rằng hiệu ứng domino của dân chủ chính là điều mà thế giới Arập cần.
- Chuyên gia và sự hiếu chiến: Những chuyên gia này được mô tả là đầy hiếu chiến và ngu dốt, với trải nghiệm thế giới chỉ giới hạn ở các cuốn sách được nhào nặn ra ở Beltway (Washington D.C.) về “chủ nghĩa khủng bố”, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa chính thống Hồi giáo, và chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, hoặc về sự “cáo chung của lịch sử”.
- Tính hiệu quả trên sự thật: Điều quan trọng là những thứ đó nghe có vẻ hiệu quả và mưu trí, ai có thể ủng hộ nó, chứ không đếm xỉa gì đến tính chân thực hoặc kiến thức thực sự.
- Hậu quả của quan điểm yếu tính luận (essentialist): Nó làm cho nỗi thống khổ và đau đớn của con người, dù lớn đến đâu, bỗng dưng bị dẹp bỏ cứ như không.
- Xóa bỏ lịch sử: Trí nhớ và quá khứ lịch sử bị xóa bỏ bằng cái câu cửa miệng, xổ toẹt, đầy khinh rẻ mà người Mỹ hay dùng: “Các anh là lịch sử”.
Chủ nghĩa Đế quốc Hiện đại và Nạn nhân luận
- Câu hỏi lớn: Hai mươi lăm năm sau khi xuất bản (Đông Phương luận), câu hỏi được nêu lên là liệu chủ nghĩa đế quốc hiện đại có bao giờ kết thúc hay không.
- Phản bác Nạn nhân luận (victimology): Người ta nói với người Arập và Hồi giáo rằng việc nhấn mạnh sự tàn phá, cướp bóc của các đế chế chỉ là cách để tránh né trách nhiệm trong hiện tại. Nhà Đông Phương luận hiện đại nói: “Các người thất bại rồi, các người sai rồi.”
- Sự nông cạn của phép tính mới: Tác giả chỉ trích quan điểm này (được V. S. Naipaul phần nào đóng góp) là nông cạn vì nó chỉ mô tả hạn chế sự bóp méo khổng lồ mà đế quốc đã gây ra cho cuộc sống của “những dân tộc nhỏ yếu” từ thế hệ này sang thế hệ khác, và tránh né không muốn nhìn nhận sự thật rằng đế quốc vẫn đang tiếp tục xâm nhập vào cuộc sống của người Palestine, Congo, Algerie và Iraq.
- So sánh Lò thiêu: Tác giả đặt câu hỏi: Nếu chúng ta đã đánh giá đúng rằng Lò thiêu (Holocaust) đã vĩnh viễn làm thay đổi ý thức của thời đại chúng ta, thì tại sao chúng ta không thể có nhận thức tương tự về những gì chủ nghĩa đế quốc và Đông Phương luận đã làm và đang làm?
Quá trình Lịch sử và Hình ảnh Lệch lạc
- Đường lối Đế quốc: Bắt đầu từ Napoléon (xâm lược Ai Cập), tiếp tục với sự phát triển của Đông Phương luận và việc tiếp quản Bắc Phi, rồi dẫn tới những hành động tương tự ở Việt Nam, Ai Cập và, trong suốt thế kỷ 20, trong cuộc chiến tranh giành dầu hỏa và vị trí chiến lược ở vùng Vịnh, Iraq, Syria, Palestine và Afghanistan.
- Sự trỗi dậy ngược lại: Trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc chống thực dân, qua giai đoạn giành độc lập, đến thời đại của các cuộc đảo chính quân sự, nội chiến, cuồng tín tôn giáo và sự tàn nhẫn chống lại nhóm “người bản địa” cuối cùng.
- Sản phẩm tri thức: Từng giai đoạn và thời đại đó đều sản sinh ra những kiến thức lệch lạc của riêng mình về “người khác”, những hình ảnh giản lược hóa, các cuộc khẩu chiến và bút chiến liên miên của riêng nó.
Chủ nghĩa Nhân văn và Mục đích
- Mục đích của Đông Phương luận: Sử dụng các phê bình nhân văn để mở ra những lĩnh vực đấu tranh, nêu ra một chuỗi tư duy và phân tích dài hơn nhằm thay thế những đợt bút chiến ngắn, dữ dội đầy nộ cuồng làm nghẽn tắc tư duy và cầm tù chúng ta.
- Danh từ “Chủ nghĩa nhân văn” (humanism): Tác giả tiếp tục sử dụng từ này một cách ngoan cường mặc dù bị các nhà phê bình hậu hiện đại bác bỏ.
- Định nghĩa của Chủ nghĩa Nhân văn:
- Nỗ lực tìm cách xua tan những xiềng xích do đầu óc con người tạo ra, để sử dụng đầu óc mình theo hướng lịch sử và duy lí vì mục đích hiểu biết trên cơ sở phản tư và phát hiện đích thực.
- Được hỗ trợ bởi ý thức rằng mình thuộc chung một cộng đồng với những người giải thích khác và những xã hội khác, những thời kì khác: “Không hề có người nhân văn nào là người nhân văn cô lập cả.”


