Tải FREE sách Truyền Thông Đại Chúng PDF

Tải FREE sách Truyền Thông Đại Chúng PDF

Tải FREE sách Truyền Thông Đại Chúng PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Truyền Thông Đại Chúng PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

MỞ ĐẦU: TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG

Triết học phương Đông hiểu một cách đại thể bao gồm các truyền thống triết học của ba nền văn minh bên ngoài châu Âu là Trung Hoa, Ấn Độ và các nước Hồi giáo. Do ảnh hưởng không chỉ bị những cản trở về mặt ngôn ngữ và văn hoá, mà cả những định kiến cố hữu của quan điểm “Châu Âu là trung tâm” làm cho mảng văn hoá “phương Đông” cho đến nay vẫn chưa được đánh giá một cách đúng mức.

1. Quan điểm về Triết học Ấn Độ

Về triết học Ấn Độ, tác giả trích dẫn lời của triết gia Ấn Độ hiện đại S. Radhakrishnan về lịch sử triết học nước này:

  • Triết học Ấn Độ đã gắn bó ba ngàn năm lịch sử với niềm hy vọng đặt trên một số nguyên lý.
  • Một nguyên lý chính là sự thành tựu tối cao của nhân loại cốt ở tại sự mở mang đầy đủ các phương diện của nhân tính, thân thể, trí thức và tâm linh.
  • Chỉ có sự nảy nở vật lý hay lành lợi trí thức thì không đủ.
  • Thực hiện tâm linh mới là mục đích của sự cố gắng của nhân loại. Để đạt mục đích ấy, không làm gì có những con đường chỉ định.
  • Trên đất Ấn Độ đã có nhiều tôn giáo cùng chung. Dân Aryen và dân Draviden, Ấn giáo và Phật giáo, Đạo Thái và Cơ đốc, Ba Tư giáo và Hồi giáo, tất cả đều được nhân dân Ấn Độ giang tay đón lấy, và các hệ thống tư tưởng và thực hành đều có thể phát triển tùy theo thiên tài tự nhiên của chúng.
  • Trên trường quốc tế ngày nay, chúng tôi cũng đang bênh vực cho cái chính sách thượng tựu của sự “Hãy sống và hãy để cho người khác sống với”.

Triết học Ấn Độ cũng như triết học Trung Hoa và toàn thể khuynh hướng tư tưởng Phương Đông không mất nguyên với suy luận trí thức, nó vẫn giữ được tính truyền thống từ thời tối cổ của hồn thơ Veda hay hồn thơ Kinh Thi và Đạo.

Một đặc điểm khác biệt là Triết học Trung Hoa là Kinh Thi xuất phát từ cái tâm hồn của đại chúng hay là thực tế, mà thơ Veda lại xuất phát từ tâm hồn của các cá nhân siêu phàm, hay là siêu thức.

Ý niệm về “Bất bạo động” (Ahimsa): Vua A Dục (Asoka) hẳn là một tín đồ Phật giáo, nhưng những lý tưởng nhân sinh của Phật giáo không khác gì lý tưởng nhân sinh của Ấn Độ giáo. Truyền thống ấy là truyền thống giáo lý tâm linh, như triết gia S. Radhakrishnan đã giới thiệu. Sri Ramana Maharichi bày tỏ tôn giáo căn cứt linh, nhưng vì đấy mà không hợp lý và luận lý.

2. Sự phát sinh của Triết học

Các nhà lịch sử còn phải trả lời cho câu hỏi, tại sao chính thế kỷ thứ VI trước Công nguyên lại khác với các thế kỷ khác của thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, như một thời kỳ bùng nổ của năng lượng trí tuệ.

Sự xuất hiện của:

  • Các hệ tiên-hàng.
  • Sự suy yếu của cấu trúc họ hàng-thân tộc.
  • Các quốc gia đầu tiên.
  • Sự tăng trưởng của thế lực đối lập với tôn giáo truyền thống.
  • Sự phê phán các chủ trương và các quan niệm mang tính chuẩn mực về đạo đức.
  • Sự tăng cường tinh thần phê phán và sự tăng trưởng các tri thức khoa học.

Đó là một số nhân tố để từ đó thành hình môi trường thuận lợi cho sự phát sinh triết học diễn ra đồng thời ở ba nền văn minh cổ đại: Hi Lạp, Ấn Độ và Trung Hoa.

3. Triết học Trung Hoa: Bối cảnh và Chủ trương

Bối cảnh lịch sử

Triết học Trung Hoa phát triển vào thời Chiến Quốc, thời mà xã hội Trung Hoa biến chuyển lớn lao để tiến từ chế độ phong kiến (gồm một vương quốc hữu danh vô thực và nhiều nước chư hầu khuynh loạn lẫn nhau) để trở thành chế độ quân chủ thống nhất chuyên chế (gồm một chính quyền tối cao độc nhất dẹp hết các nước chư hầu, chia giang sơn thành nhiều quân, huyện rồi tuyển người để giao việc cai trị mỗi quân, huyện dưới sự điều khiển của vị thiên tử). Vì thời đó là thời loạn, nên các triết gia Trung Hoa mới đưa ra một đạo lý để cứu vãn thời thế.

  • Khổng Tử muốn bảo tồn chế độ phong kiến và khuyên mọi người phải giữ địa vị, làm tròn bổn phận của mình.
  • Lão Tử muốn trở lại đời sống tự nhiên ở trước hoặc đầu thời đại phong kiến.
  • Mặc Tử chủ trương chuyên chế bằng đạo kiêm ái, và chính sách công lợi.

Các nhà tuy không nói ra nhưng đều mong thống nhất được Trung Quốc. Cuối cùng, Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực và chính sách hình pháp của Hàn Phi mới “gom về được một mối”. Triết lý thực dụng không thể áp dụng được về chính trị trong thời loạn, nhưng khi nước đã trị rồi thì nó lại rất hữu ích. Muốn củng cố chế độ mới, nhà Hán tôn sùng học thuyết Khổng Tử vì học thuyết đó hợp thời hơn học thuyết của Lão, Trang, thực tế hơn học thuyết của Mặc Tử. Nhờ vậy mà lần lần, Khổng giáo được nâng lên địa vị độc tôn.

Vị trí của Con người trong Vũ trụ

Về vấn đề “con người trong vũ trụ”, tư tưởng cả dân tộc Trung Hoa không có gì đặc sắc. Con người dù có được trăm năm thì so với thời gian vô cùng không đáng kể gì. Tuy nhiên, họ cũng nhận rằng, nhờ tinh thần, trí khôn, con người giữ một địa vị trác việt trong vũ trụ, làm chúa tể được muôn loài.

Chủ trương Bi Quan (Trang Tử): Trang Tử nhận thấy sự vô cùng của vũ trụ và sự nhỏ bé của chúng ta.

  • “Chúng ta ở trong khoảng trời đất, như hòn đá nhỏ, thân cây nhỏ ở trong núi lớn. Kẻ bốn bể ở trong khoảng trời đất, có khác chi cái hố nhỏ ở trong cái chấm lớn không?”
  • Ông ví loài người ở trong vũ trụ như những sinh vật ở sừng con ốc sên. Trên sừng bên tả con ốc sên có một giống vi sinh vật tụ tập với nhau mà sống như một quốc gia, trên sừng bên hữu con ốc sên có một giống vi sinh vật khác cũng tụ tập với nhau mà sống như một quốc gia khác, và hai “quốc gia” đó thỉnh thoảng gây chiến với nhau, bỏ thây hàng mấy vạn, đuổi nhau chạy dài cả nửa tháng mới trở về.
  • Phần bi quan trong tư tưởng của ông: “Thân của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó chỉ là cái hình hài mà trời đất giao phó cho anh đấy. Tinh mệnh của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó là do trời đất giao phó cho anh đấy”. Nghĩa là con người phải phụ thuộc vào trời đất chứ không thể độc lập; đã là một ký sinh vật do tạo hoá ngẫu nhiên tạo nên thì ta không thể làm chủ tể đời ta được mà phải chịu sự chi phối hoàn toàn của vũ trụ.

Chủ trương Lạc Quan (Lão Tử): Lão Tử cũng chủ trương theo luật tự nhiên nhưng khởi điểm có khác; ông cho người cùng lớn như trời đất, vì trời đất với người chỉ là một, đều do đạo sinh ra cả.

  • Trong Thượng thiên, ông viết: “Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo thì tự nhiên nhi nhiên”.

4. Triết học Phương Đông ở Nga

Vị trí địa lý của nước Nga thuộc cả hai lục địa Á, Âu trong quá khứ lịch sử có liên quan chặt chẽ đến vận mệnh Phương Đông. Quan hệ giao tiếp từ xa xưa về chính trị, thương mại và văn hoá với các láng giềng châu Á, tồn tại từ thời Đế chế Nga Hoàng.

Vào đầu thế kỷ XX, bộ môn phương Đông học Nga đã nổi tiếng với những công trình của F. I. Serbatxki, V. P. Vaxiliep, S. F. Oldenburg, O. O. Rôzenberg, V. M. Alekxeep và nhiều nhà khoa học khác. Điều đáng lưu ý là mối quan tâm của những nghiên cứu Phương Đông rất rộng, đối với đa số họ thì triết học không phải là đối tượng nghiên cứu duy nhất và cơ bản.

Sau thời kỳ Tiền chiến và mấy chục năm tiếp theo, tình hình chính trị – tư tưởng hình thành ở Nga đã không tạo điều kiện cho sự phát triển bộ môn nghiên cứu phương Đông, mà còn gây cho nó những tác hại ghê gớm. Tuy vậy, vẫn có những nhà khoa học thế hệ tiên tiến độc lập đã tiến hành các nghiên cứu cứu tầm cỡ thế giới.

Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, có những bước ngoặt mang tính quyết định đối với các nhà nghiên cứu Nga về triết học phương Đông:

  • Họ chuyển hướng nghiên cứu theo chuyên đề về triết học thuần tuý.
  • Phần lớn là mở rộng khai thác các nguồn tư liệu cực kỳ phức tạp thời Cổ đại và Trung kỳ.
  • Đặc biệt việc chú giải và dịch thuật các tư liệu đó ra ngôn ngữ, khái niệm châu Âu.

Các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận các hiện tượng “tư tưởng phương Đông” như một nền văn hoá của thế giới, trong đó có lịch sử triết học, được mở rộng hơn rất nhiều.