Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



LỜI MỞ ĐẦU
Tôi sang Pháp du học năm 1961, khi mới 19 tuổi. Là đứa con của đồng quê Việt Nam, tôi được nuôi dưỡng bằng hình ảnh cánh đồng, lũy tre, bờ ruộng, con cò, và bằng những câu ca dao mộc mạc:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng…”
“Ta về ta tắm ao ta…”
Lớn lên một chút nữa, tôi được nuôi dưỡng bằng những bài học quốc văn giáo khoa thư, những câu chuyện dân gian và truyền thống như Phạm Công – Cúc Hoa, Lưu Bình – Dương Lễ, Tấm Cám, Phù Đổng Thiên Vương, Thạch Sanh – Lý Thông…
Khi chớm có nhận thức, tâm hồn tôi được hun đúc bằng những trang sử oai hùng của dân tộc:
- Ngô Quyền phá quân Nam Hán,
- Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm,
- Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên,
- Lê Lợi bình định giặc Minh,
- Quang Trung đại thắng quân Thanh.
Và bằng những tấm gương tuẫn quốc sáng ngời: Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu…
Niềm vinh dự lớn lao nhất đối với tôi là sự hy sinh dũng liệt của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng, bởi trong trang sử này, gia đình tôi cũng có phần hy sinh.
Trí tuệ tôi còn được rèn luyện bằng thơ văn Nguyễn Công Trứ, bằng Truyện Kiều, bằng tư tưởng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bằng Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, cùng nhiều tác phẩm ái quốc – trong đó có cả thơ của Đặng Phương mà sau này tôi mới biết là Nguyễn Ngọc Huy.
Tất cả vốn liếng tinh thần và văn hóa ấy khiến tôi mang nặng niềm tự hào dân tộc khi vừa đặt chân đến Pháp. Trong thâm tâm, tôi tin rằng Việt Nam hơn Pháp, cũng như tôi đã từng tin rằng Việt Nam hơn Trung Hoa.
Nước Pháp – theo tôi khi ấy – chỉ có một nền văn minh vật chất, còn thua xa Việt Nam về văn hóa, tâm linh và chiều sâu tinh thần. Tôi tin rằng Phương Đông hơn Phương Tây.
Phương Đông – nơi của nền văn minh lâu đời về tư tưởng, đạo đức và văn hóa; còn Phương Tây – chỉ hơn nhất thời về khoa học và kỹ nghệ.
Phương Đông có chiều sâu, Phương Tây chỉ có bề rộng.
Phương Đông có bề trong, Phương Tây chỉ có bề ngoài.
Phương Đông có hồn, Phương Tây chỉ có xác.
Tôi đã nhiều lần tranh luận gay gắt với các bạn học người Pháp, mỗi người đều mang trong mình niềm tự hào dân tộc mãnh liệt.
Sau vài năm, tôi thạo tiếng Pháp. Tôi ham đọc, nên kiến thức về lịch sử, chính trị, văn hóa Pháp có phần trội hơn nhiều bạn Pháp. Tôi tin rằng mình hiểu rõ nước Pháp, và rộng hơn, hiểu rõ Phương Tây.
Nhưng rồi, mọi thứ dần thay đổi theo thời gian. Càng sống, càng làm việc, càng giao tiếp với người Pháp và các dân tộc châu Âu, tôi càng nhận ra rằng mình chưa hiểu gì về họ cả.
Niềm tự hào dân tộc trong tôi dần phai nhạt, nhường chỗ cho sự hoang mang, rồi sau cùng là nỗi chua xót và thẹn thùng khi nhận ra sự thua kém của đất nước và con người Việt Nam.
Khi tiếp xúc với người Mỹ, nỗi đau ấy càng lớn dần, đến chậm chạp nhưng mãnh liệt. Tôi nhận ra rằng người châu Âu rất nhân bản, thâm thúy, đầy óc sáng tạo; nền văn minh của họ vượt xa chúng ta, và văn hóa của họ cao hơn chúng ta cả về lượng lẫn phẩm.
Tôi từng tự hào về trống đồng, thành Cổ Loa, chùa Hương, chùa Phổ Minh, các lăng tẩm ở Huế… nhưng rồi phải xấu hổ khi tận mắt chứng kiến những công trình nghệ thuật vĩ đại, tinh xảo, cổ kính hơn gấp bội ở châu Âu.
Thì ra, tôi đã như con ếch ngồi đáy giếng.
Ngũ thập tri thiên mệnh – năm mươi tuổi biết mệnh trời.
Nay tôi đã ngoài năm mươi, không biết đã “tri thiên mệnh” chưa,
nhưng tôi đã khám phá ra một điều giản dị:
Bất cứ điều lạ lùng nào cũng đều có lời giải thích đơn giản.
Các nước phương Tây vượt trội vì văn hóa của họ lành mạnh, tâm lý của họ đúng đắn.
Việt Nam nghèo khổ vì văn hóa thui chột, tâm lý người Việt bệnh hoạn.
Điều đó, ai cũng biết. Nhưng biết bằng kinh nghiệm sống thì khác hẳn biết qua lý thuyết.
Kinh nghiệm không chỉ đem lại nỗi đau của sự thua kém, mà còn cho tôi niềm tin rằng Việt Nam có thể tiến lên, tiến xa và tiến cao – nếu biết nghĩ lại mình.
Đó là lý do ra đời của cuốn sách khiêm nhường này.
Xét lại mình là một cuộc thao dượt đau nhức, nhưng cần thiết.
Phải nhìn thẳng chân dung của chính mình, dù không đẹp.
Tôi xin lỗi những độc giả có thể phiền lòng với những trang sau.
Nhưng nếu sự thật làm ta khó chịu, thì chính là sự thật đó cần được nói ra.
Cuốn sách nhỏ bé này – nếu là một bản phân tích không nhân nhượng về nước Việt và người Việt – thì không hề tiêu cực; nó muốn được là một cuốn sách của hy vọng và niềm tin.
Và tôi – tác giả – thực sự hy vọng.
Sẽ có độc giả cho rằng cuốn sách này nhiều thiếu sót. Tôi chấp nhận điều đó.
Có hai loại thiếu sót:
- Những điều tôi thực sự không thấy,
- Và những điều tôi thấy nhưng không nói ra.
Tôi chọn chỉ nói về những điều ít người đồng ý, bởi nói ra điều mới – dù sai chín, đúng một – vẫn có ích hơn là nói mười điều đúng nhưng cũ kỹ.
Nói điều mình tin là đúng, dù biết rằng sẽ bị cho là sai – đó là cách khiêm tốn của tôi.
LỜI ĐỀ TẶNG
Cuốn sách này được đề tặng ba người thân yêu nhất:
Hồ Quì – vợ tôi,
Hiền – con trai tôi,
Hòa – con gái tôi.
Hồ Quì thực ra là đồng tác giả. Nàng thảo luận với tôi về mọi ý tưởng, đọc, góp ý, và đặc biệt mang lại niềm vui trong lúc viết.
Tôi cũng xin đề tặng nhóm Thông Luận, tổ chức chính trị tôi gắn bó từ năm 1982 – gia đình thứ hai của tôi. Ở đó, tôi được gặp nhiều trí thức và chuyên gia tâm huyết với đất nước.
Chúng tôi khác biệt nhiều điểm, nhưng thống nhất trong mục tiêu đấu tranh cho một thể chế dân chủ đa nguyên, trong tinh thần hòa giải và bất bạo động.
Từ năm 2000, nhóm Thông Luận mang tên mới: Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, song trong sách vẫn giữ tên cũ vì tôi bắt đầu viết từ trước đó.
Cuốn sách cũng được đề tặng ba người đã khuất:
Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt và Nguyễn Hoàng Quốc Phái.
- Lê Văn Đằng, người bạn chí cốt, người anh em gắn bó từ thuở thanh xuân, từ cùng chuyến bay du học đến những năm tháng hoạt động.
- Vũ Tiến Đạt, chàng trai trẻ đầy hoài bão, từng thề “muốn làm Tổng thống Việt Nam” – dám sống, dám chết cho lý tưởng.
- Và Nguyễn Hoàng Quốc Phái, con gái đầu lòng của tôi – một thiên thần bé nhỏ ra đi trong cảnh cha mẹ bị giam cầm.
Tôi đã khóc rất nhiều bên mộ con, và hiểu rằng nếu đã chọn trở về vì đất nước, tôi không thể bỏ cuộc.
Tôi cần một chiến thắng để tặng con – một chiến thắng xứng đáng với nỗi đau không bao giờ nguôi trong tôi.
Cuốn sách này, dù nhỏ bé, là một lời hứa với những người đã khuất,
và là một niềm tin gửi tới những người còn sống.Nó không chỉ là nỗi đau, mà còn là hy vọng cho Việt Nam hôm nay và mai sau.


