Tải FREE sách Cổ Học Tinh Hoa - Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc PDF

Tải FREE sách Cổ Học Tinh Hoa – Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc PDF

Tải FREE sách Cổ Học Tinh Hoa – Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Cổ Học Tinh Hoa – Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

CHƯƠNG 1

LỜI NÓI ĐẦU

“Có mới, nới cũ” — thường tình vẫn thế.
Tân học mỗi ngày một tiến, tất Cựu học phải lùi, và có khi sợ rồi mai một đi mất.
Nhưng, Tân học mà hay, tất là Tân học có một nền tảng vững chắc.
Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học.

Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đã làm cho ông cha ta phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể, duy trì được thế đạo nhân tâm — thật không phải là một cái học không có giá trị, đáng khinh rẻ hay quên bỏ được.

Vả chăng: “Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm.”
Ta đã biết truyện đời nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa; ta ôn lại việc đời xưa mà rõ được việc đời nay. Có như thế thì cái học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết.

Vì tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều trong một ngày của trời đất. Kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, thì sao gọi là “bác cổ thông kim” được!


Cựu học của ta là gì?

Cựu học của ta tức là Hán học — nghĩa là một cái học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đã chịu cái văn hóa của giống người Hán, tức là người Trung Hoa.

Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoài ra, còn Bách gia chư tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lý tưởng rất sâu xa, muốn học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được.


Mục đích biên soạn

Nay, chúng tôi biên tập quyển sách này không phải là muốn chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào.
Chúng tôi chỉ góp nhặt một đôi chút lý tưởng trong Cổ học, gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi.

Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ “Cổ Học Tinh Hoa” làm nhan sách.
Chúng tôi có ý chọn những bài ngắn mà nghĩa lý hàm súc, dồi dào.
Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu, nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được.

Vì truyện tuy cổ, nhưng cái chân lý thì bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới.

Nào hiếu đệ, nào trung tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái sinh tử — bài này chính giọng huấn giáo, bài kia rõ thể ngụ ngôn; truyện này nghiêm trang khắc khổ, truyện kia khôi hài lý thú.

Đức Khổng nói “Nhân” hồn nhiên như hóa công; ông Mạnh bàn “Nghĩa” chơm chởm như núi đá; Tuân Tử nói “Lễ” thật là đường bệ; Mặc Tử nói “Ái” thật là rộng rãi; hình danh như Hàn Phi Tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng; ngôn luận như Án Tử thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ; đến nói đạo đức như Lão Tử, bàn khoáng đạt như Trang Tử — thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây…

Các lý thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ.


Về việc dịch thuật

Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó.
Chẳng những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa; nhiều bài, chính nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác, không lấy gì làm xác định.

Nên khi dịch, chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài:

  • Bài thì dịch thẳng nguyên văn,
  • Bài thì chỉ dịch lấy đại ý,
  • Hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại — cốt cho xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài thì thôi.

Dịch Hán văn ra quốc văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán.
Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, thì ở dưới chúng tôi đã có “giải nghĩa” rõ ràng.
Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chứ không phải hết mọi nghĩa của từng chữ.


Về phần chú thích

Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện, và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại.

Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau này, ở đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi.

Đọc một bài văn hay mà tư tưởng đã thấm thía vào tâm não, thì tất không sao để yên ngòi bút mà không phê bình được.

Đó cũng là một cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương, hay có cái thú ngâm nga và đưa ngòi bút khuyên liền, khuyên kín vậy.
Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy.
Nên dưới mỗi bài, chúng tôi cũng góp “Lời bàn”, cốt là để giải rõ các đại ý trong bài hoặc lạm bình một đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ.


Lời kết

Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách này — là quyển đầu — có ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nhiêu nghìn năm về trước; rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà; thêm được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến; rộng được ít tri thức tuy thuộc về cổ học mà thật khác nào “như thóc gạo, như vải lụa”, thường cần đến hàng ngày.

Nếu quyển sách này giúp được một phần trong muôn phần ấy, thì chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy.

Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925)
NGƯỜI LÀM SÁCH
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
Từ An Trần Lê Nhân


TIỂU SỬ TÁC GIẢ “CỔ HỌC TINH HOA”

Tác giả: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhân.

Về phần Từ An Trần Lê Nhân, vì không thấy có tài liệu nào nói đến ông, nên không có tiểu sử của ông ở đây.


Tiểu sử Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc

  • Nguyễn Văn Ngọc (1/3/1890 – 26/4/1942), hiệu Ôn Như, là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
  • Quê ở làng Hoạch Trạch (làng Vạc), xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
  • Thuở nhỏ, ông học cả Hán học lẫn Tây học.
  • 17 tuổi tốt nghiệp Trường Thông ngôn, sau đó dạy ở Trường Tiểu học Bờ Sông, Hà Nội, rồi dạy ở Trường Bưởi, Trường Sĩ hoạn (Hậu bổ), Trường Sư phạm
  • Sau này, ông làm Thanh tra các trường sơ học, phụ trách Tu thư cục của Nha học chính, Hội trưởng Hội Ái hữu các nhà giáo, thành viên Khai Trí Tiến ĐứcCổ Kim Thư Xã.
  • Năm 1934, ông được bổ nhiệm Đốc học tỉnh Hà Đông, tham gia Hội Phật giáo Bắc Việt, góp sức xây dựng chùa Quán Sứ thành hội quán trung ương.

Hơn 30 năm làm giáo học, ông đã sưu tầm, biên soạn nhiều sách giáo khoa và sách nghiên cứu văn học có giá trị.
Ông đặc biệt say mê văn hóa dân gian, dành cả cuộc đời để sưu tầm, khai thác và phổ biến.

Ông mở hiệu sách Vĩnh Hưng Long Thư Quán tại 51 Hàng Đường, Hà Nội, chủ yếu để bán sách do chính ông biên soạn.
Ông còn là người có công bảo tồn sân khấu dân gian, cùng anh là Nguyễn Trọng Oánh và ông Đỗ Thập lập nên Sán Nhiên Đài — rạp hát chèo đầu tiên trên sân khấu hộp ở Hà Nội.

Nguyễn Văn Ngọc mất ngày 26 tháng 4 năm 1942.
Tên ông hiện được đặt cho hai con đường ở Hà NộiThành phố Hồ Chí Minh.

Con gái ông là bà Nguyễn Thị Hy (sinh năm Quý Sửu 1913), từng làm con dâu học giả Phạm Quỳnh, sau kết hôn với nhà cách mạng Trần Huy Liệu.


Tác phẩm tiêu biểu

Ông có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học phương Đông, nhất là văn hóa dân tộc.
Một số tác phẩm tiêu biểu gồm:

  • Phổ thông độc bản (1922)
  • Cổ học tinh hoa (1925, cùng Trần Lê Nhân)
  • Đông Tây ngụ ngôn (1927)
  • Nam thi hợp tuyển (1927)
  • Tục ngữ phong dao (1928)
  • Nhi đồng lạc viên (1928)
  • Để mua vui (1929)
  • Câu đối (1931)
  • Đào nương ca (1932)
  • Truyện cổ nước Nam (4 tập, 1934)
  • Ngụ ngôn (1935)
  • Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc toàn tập (2003 – NXB Văn Học)

Đánh giá

Các tác phẩm của Nguyễn Văn Ngọc thể hiện kiến thức sâu rộng, tinh thần dân tộc, và khát vọng bảo tồn tinh hoa văn hóa cổ truyền.
Bộ Cổ học tinh hoaTục ngữ phong dao được xem là những công trình tiêu biểu trong nền học thuật Việt Nam hiện đại.