Tải FREE sách Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

**MỞ ĐẦU**

Hậu bán thế kỷ 18 là một trong những giai đoạn rối ren nhứt và cũng là một trong những giai đoạn hiếm hoi mà người Việt sau khi chịu được cơn chuyển mình, thấy đất nước lớn mạnh hơn, dồi dào sinh lực hơn ngày trước. Cuộc khởi nghĩa Tây sơn, biến cố Tân Lê, mạt Trịnh, sự phục hồi của họ Nguyễn, tất cả đây sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đương thời vội vã ghi chép, người sau kiên nhẫn lục lọi làm nên những tổng hợp chuyên biệt, khoa học mà chúng ta chú ý ở đây. Hãy kể lấy một vài trường hợp. Thời đại lịch sử kể trên tràn một phần khá lớn trong quyển *Histoire Moderne du Pays d’Annam* (1529-1820) của Ch. Maybon ^1 là « quyển sách có giá trị đặc biệt », « một công trình có giá trị trong học giới » như Phạm Quỳnh đã tán tụng ^2. Không khi phục cổ đo báo *Tri tân* (1940-1945) đưa tới phía người Việt, dưới sự thúc đẩy của ảnh hưởng Trường 1. Paris, Lib. Plon. 1919. 2. *Thượng Chi văn tập*, Bộ QGGD tái bản, tập V, t. 8. Đáng lưu ý rằng Aurousseau khi phê bình sách của Maybon lại chê rằng ông này không tìm được gì mới hơn những điều mà L. Cadière đã nói đến hơn 10 năm trước.

Viễn đông bác cổ qua các ông Ung hoè Nguyễn văn Tố, Biệt lam Trần huy Bá, Mãn khánh Dương Kỵ… hợp với không khí nghiêm trọng của thế chiến thứ hai nuôi dưỡng ý hướng khảo sát, khiến thấy xuất hiện giữa những tác phẩm lịch sử khác, quyển *Quang Trung Nguyễn Huệ*, anh hùng dân tộc của Hòa Bằng ^1. Cũng được sửa soạn thành hình trong thời kỳ đó, nhưng xuất hết muộn màng trong thời chiến tranh (1945-1954) để nhân dịp biện hộ cho thái độ soạn giả trước thời cuộc là quyển *La sơn phu tử* của Hoàng xuân Hãn ^2. Hiện nay theo với sự tạo lập các chứng chỉ Sử học ở trường Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Phương cũng khảo sát biến động Tây sơn đăng dần trên các tạp chí Đại học, Bách khoa, Đại học Sư phạm Huế ^3. Và bây giờ chúng tôi cũng thu nhặt tài liệu để khảo sát giai đoạn này trong tình cách toàn thể của nó dưới nhan đề là : « Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802 ». Các thư viện : Thư viện Quốc gia, Tổng thư viện và đặc biệt Thư viện Viện Khảo cổ đã cung cấp tài liệu cho chúng tôi. Các bài chỉ dẫn thư tịch của L. Cadière và P. Pelliot, E. Gaspardone, Trần văn Giáp, Huỳnh khắc Dụng, ở các sách tổng hợp cẩn thận theo tinh thần khoa học đã giúp chúng tôi dễ dàng trong khi tìm tòi.

Nhưng ở đây chúng tôi vẫn vấp phải một điều mà người trước đã lưu ý tới : tài liệu khiếm khuyết. Lê quý Đôn ngày trước đã thống trách về tình trạng sách vở lưu lạc, mất mát ở nước ta ^1. Hay nói như L. Cadière và P. Pelliot ^2, « không ở đâu mà cái gia tài kiến thức của một dân tộc lại tan biến nhanh như vậy ». Thực ra, tình trạng hiếm hoi sách vở, nhất là sử ký, cũng được người xưa công nhận là tại người ta ít chuyên tâm chú ý sáng tác. Tham tụng đời Trịnh Khải là Bùi huy Bích viết : « Nước ta về môn sử ký rất là sơ lược. Chép sử có hai lối, một là ký truyện, hai là biên niên. Lối ký truyện thời đã không có rồi, đến lối biên niên cũng lại thiếu thốn, nhiều chỗ sai lầm… Học giả có biết nghĩ đến cũng nên sửa sang lại sử, hay là làm lời bàn bạc, chứa vào kho vua để đợi hậu thế » ^3. Thế mà khi hậu và chiến tranh tàn hại lại đua nhau phá hoại những sách vở ít ỏi đã ra đời.

Hai tác giả Cadière và Pelliot từ năm 1904 còn có giọng bị quan huống là chúng ta bây giờ, trải qua chiến tranh tiêu thổ 1945-1954 và 1956-?. Bộ *Thực lục Chính biên đệ nhất kỷ* của Viện Khảo cổ thiếu mất đi từ quyển 14 tới quyển 32 là trong những ví dụ. Có những sách không dùng được hoặc thiếu hụt hiệu quả xác thực : quyển *Hoàng Lê Nhất thống chí* theo bản dịch của Ngô tất Tố có những lỗi in thật là tai hại. Tài liệu hiếm hoi dẫn đến sự cách biệt người và tài liệu : có thể Thư viện ở Huế còn giữ những bộ *Thực lục* thiếu sót trên ^4. Vì lẽ đó mà tài liệu thường phải rải rác khiến chúng ta sử dụng không đều phần sách tham khảo đã liệt kê.

Nhưng nếu bằng lòng với thực tế thì chúng ta cũng có thể sử dụng phần hiện có được. Tài liệu gồm có hai phần xét từ nguồn gốc : những giấy tờ, sử sách của người nước ta để lại hay của các nhân vật Tây phương có liên lạc với công cuộc truyền giáo, buôn bán với xứ này cung cấp. Loại thứ nhất, phần thuộc những tài liệu xác đáng nhất, có thể là các đồng tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh, các bộ giáp, khi giở của tướng binh Chà-và của Nguyễn Ánh (trưng bày ở Hội chợ Sài gòn, khu lịch sử 1942), bản chụp ảnh các thư Nguyễn Ánh gởi người Tây phương, chiếu truyền La sơn phu tử của Quang Trung, sắc phong thần đời Quang Trung (trưng bày ở Hội chợ Hà nội, khu lịch sử, 1940-1941) ¹… Trong những thư này thì chính chúng tôi cũng chỉ thấy tận mắt, trong hình trạng thực của nó, các đồng tiền, các thư và tờ sắc thuộc Nguyễn Huỳnh Đức về chuyến đi sứ năm 1797 thôi.

Tài liệu này cất trong nhà thờ Đức nhuận hầu ở làng Khánh hậu, tỉnh Long an và cảm giác đầu tiên chúng tôi khi nhìn thấy là xứ sở đương thời quá thực nghèo nàn, từ đó mới hiểu rõ hơn nỗi thất vọng của bọn phiêu lưu Olivier, Barizy. Cũng thuộc loại thứ nhất nhưng tiếp theo những tài liệu kể trước trong thứ tự cổ điển về tính cách xác thực là các thi văn, lời thuật của các nhân vật lịch sử (Ngô thì Nhậm, Phan huy Ích, Trịnh hoài Đức…). Phần nhiều những loại này vì tính cách tiêu khiển, ngâm vịnh của chúng và một số những bản văn vì hình thức văn đối của chúng vẫn được kể là tài liệu văn học ². Nhưng nếu nói như H. I. Marrou ¹ « mọi thứ đều có thể là tài liệu », thì ta vẫn dùng được chứng bởi vì, các văn thần của chúng ta ngày xưa làm thơ văn là để diễn tả mỗi xúc động của họ trước sự kiện xảy ra, nghĩa là tính cách nhân chứng lịch sử của họ vẫn có ngay khi họ đề hồn mơ mộng.

Đọc câu thơ Lê ngọc Hân khóc Quang Trung : « Mà nay áo vải cờ đào, » trong một tiếng kêu thất ‘vọng dài 164 câu, triền miên nỗi niềm đau xót, ta thấy xúc động trước cảnh tử biệt sinh ly. Nhưng nếu dừng ở lãnh vực sử học, thì hai chữ « cờ đào » là một chứng cớ hoạt động của quân tướng Tây sơn, chứng cớ thấy ở nơi khác, nơi các bức thư của L.M. D. de Jumilla và L. Barizy. Đương thời có một quyền lịch sử kỳ sự là quyển *Hoàng Lê Nhất thống chí*. Theo giáo sư Dương quảng Hàm, quyển « lịch sử tiểu thuyết » ² này còn có tên *An nam Nhất thống chí* chia làm 7 hồi, chép công việc nhà Hậu Lê từ Trịnh Sâm đến lúc nhà Trịnh mất ngôi Chúa (1767-1787). Một bản tục biên (hồi 7-17) chép tiếp từ lúc Chiêu Thống chạy sang Tàu đến khi đi hải được đem về chôn ở Thanh hoa. Giáo sư thắc mắc « không biết có phải Ngô Du đã soạn 7 hồi sau không » mà không lưu ý rằng bản tục như giáo sư dẫn có đến 10 hồi.

Trong khi đó bản dịch của Ngô tất Tố có đến 19 hồi tất cả. Xét theo hơi văn và chủ đích lộ ra, sách chắc phải do 3 tác giả viết. Ngô thì Chi chắc viết 7 hay 8 hồi đầu với dụng ý hiểu chữ nhất thống là gồm-một-về-Lê nhân dịp Tây sơn diệt Trịnh. Các hồi sau (đến trang 277 trong bản Ngô tất Tố) có lẽ của Ngô Du viết trong thời kỳ họ Ngô có Ngô thì Nhậm là sủng thần của Quang Trung, giọng văn đầy tính cách thán phục viên chủ tướng này. Giọng văn từ trang 277 đổi đi, gọi Quang Toản là vua « Ngụy Tây », quân Gia định là « quân của Hoàng Triều » khiến Ngô tất Tố phải chú thêm là « dịch theo nguyên văn ». Tác giả đoạn này rõ là một kẻ bề tôi Nguyễn viết ra nỗi bản văn trước để cưỡng ép ý nhất thống do Ngô thì Chi đề ra, quay về phục vụ cho công cuộc xây dựng sự nghiệp của Nguyễn Ánh.