Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



Những người đàn bà mắt đen
Tiếng tăm đến đột ngột, thường là thứ mà người bình thường không mong nó đến với mình — chẳng hạn như bị bắt cóc và cầm tù nhiều năm, chịu nhục nhã trong một vụ bê bối tình dục, hoặc sống sót qua một biến cố thảm khốc. Những người ấy cần người chấp bút giúp ghi lại câu chuyện của mình, và người đại diện họ có thể thi thoảng vớ được tên tôi.
“May quá, tên tuổi của mày không được nhắc đến,” má tôi nói thế.
Khi tôi trả lời rằng tôi sẽ không phiền nếu được nhắc đến trong lời cảm ơn ở các cuốn sách, bà nói:
“Ðể tao kể mày nghe một chuyện.”
Có thể đây là lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này, nhưng không phải lần cuối cùng.
“Hồi kia ở xứ mình,” bà nói tiếp, “có một tay phóng viên lên tiếng chỉ trích chính phủ tra tấn tù nhân. Thế là chính phủ cho hắn nếm đúng cái thứ mà hắn tố cáo chính phủ đã làm. Họ bỏ tù hắn và hắn bị mất tích. Ðó là chuyện xảy ra cho mấy đứa ghi tên mình dưới bài viết nào đó.”
Vào thời điểm Victor Devoto chọn tôi, tôi đã chấp nhận vai trò của một tác giả viết thuê không có tên trên bìa sách. Đại diện xuất bản đưa cho ông xem một cuốn mà tôi đã viết, tác giả danh nghĩa của cuốn này là cha của một cậu trai từng bắn và giết nhiều người trong trường của cậu ấy.
“Tôi thấu hiểu cảm giác tội lỗi của người cha,” Victor nói với tôi.
Ông là người sống sót duy nhất trong một vụ rơi máy bay, một trăm bảy mươi ba người đã thiệt mạng, trong đó có cả vợ và các con của ông. Ông xuất hiện trong các chương trình trò chuyện trên truyền hình, nhưng chỉ là cái xác không hơn không kém — một giọng nói đều đều, nhỏ nhẹ; đôi mắt mỗi khi ngước lên dường như còn giữ mãi hình bóng của đoàn người than khóc.
Chủ nhà xuất bản bảo phải gấp rút hoàn tất câu chuyện khi khán giả còn nhớ thảm kịch đó, và đây là mối bận tâm của tôi vào ngày mà người anh quá cố hiện về với tôi.
Má đánh thức tôi dậy khi ngoài trời còn tối om, nói:
“Ðừng sợ.”
Cửa phòng đang mở, ánh đèn từ hành lang làm tôi chói mắt.
“Sao con phải sợ?”
Khi bà nhắc đến tên anh, tôi không nghĩ tới anh ngay. Anh mất đã lâu. Tôi nhắm mắt lại và nói con đâu quen ai có tên đó, nhưng bà vẫn kiên trì:
“Nó về đây thăm nhà mình,” bà nói, kéo cái mền tôi đang đắp và lay giật cho đến khi tôi mắt nhắm mắt mở, ngồi nhổm dậy.
Bà đã sáu mươi ba, đôi khi hơi lẫn, nên khi bà dẫn tôi ra phòng khách và bật khóc, tôi không ngạc nhiên mấy.
“Nó ở ngay đây,” bà quỳ xuống bên chiếc ghế bành bọc vải hoa và rờ mặt thảm. “Còn ướt nè.”
Bà bò tới cửa trước trong bộ đồ ngủ vải bông, theo dấu vết đó. Khi tôi chạm vào mặt thảm, thấy còn ẩm ướt. Trong thoáng chốc tôi giật thót người tin thật — sự im lặng của ngôi nhà lúc bốn giờ sáng làm tôi lo ngại.
Rồi tôi nghe thấy tiếng mưa rơi trên máng xối, và nỗi sợ đang siết cổ tôi dần nới lỏng ra. Má tôi chắc đã mở cửa, bị mắc mưa nên quay trở vào.
Tôi ngồi xuống bên cạnh khi bà nép sát cửa, tay đặt trên nắm đấm.
“Má cứ hay tưởng tượng chuyện bóng gió!”
“Tao biết tao nhìn thấy gì chứ.” Gạt tay tôi khỏi vai, bà đứng dậy, sự giận dữ lấp lánh trong đôi mắt tối thẫm của bà. “Nó lướt đi. Nó nói chuyện. Nó muốn gặp mày.”
“Vậy anh ấy đâu hả má? Con có thấy ai đâu?”
“Dĩ nhiên mày không thấy.” Bà thở dài, cứ như tôi là đứa không hiểu được điều hiển nhiên. “Nó là hồn ma mà?”
Từ hồi ba mất cách đây mấy năm, má con tôi sống nương tựa vào nhau. Cả hai cùng mê câu chữ, nhưng tôi thích sự im lặng trong việc viết lách, còn bà lại thích nói.
Bà thường xuyên kể cho tôi nghe những lời đồn và những câu chuyện — loại chuyện duy nhất tôi thích là về cha tôi hồi ông còn là một người mà tôi không biết, trẻ và hạnh phúc.
Rồi đến những chuyện kinh hoàng kiểu như chuyện về anh phóng viên, với bài học rút ra là cuộc đời cũng giống như đám cảnh sát, thích lâu lâu lại đánh đập dằn mặt con người ta.
Sau cùng là loại chuyện ma ưa thích của bà, thứ đó bà biết nhiều — một số là chuyện chính bà đã gặp.
“Dì Sáu mày bị bệnh tim mất hồi bảy mươi sáu tuổi,” má nói với tôi một, hai, hay có thể ba lần — lặp lại là thói quen của bà.
Tôi chẳng bao giờ tin những chuyện bà kể.
“Dì sống ở Vũng Tàu còn nhà mình ở Nha Trang. Tao đang dọn cơm ra bàn thì thấy dì Sáu mày mặc đồ ngủ ngồi đó. Mái tóc dài muối tiêu của dì ấy thường được bó thành búi, bữa đó xổ ra phủ xuống vai rồi che luôn mặt. Tao thiếu điều làm rớt mớ chén dĩa. Khi tao hỏi dì ấy làm gì đó, dì ấy chỉ mỉm cười, đứng dậy, hun tao, rồi xoay tao về phía nhà bếp. Khi tao quay lại dòm thì dì ấy biến mất tiêu. Ðó là hồn của dì ấy. Dượng mày xác nhận lúc tao gọi điện. Dì mới mất ngay sáng đó.”
Dì Sáu ra đi thanh thản, theo má tôi kể, hồn của dì chỉ đi lòng vòng ở nhà và bên gia đình để từ biệt thôi.
Má tôi lặp lại câu chuyện về dì khi má con tôi ngồi ở bàn ăn vào buổi sáng mà bà nói đã thấy anh tôi. Tôi đã pha một ấm trà xanh và đo thân nhiệt cho bà mặc dầu bà phản đối, kết quả là nhiệt độ bình thường như bà đã tiên đoán.
Vẩy vẩy nhiệt kế về phía tôi, bà nói chắc anh tôi biến mất vì mệt. Dù sao thì anh ấy cũng vừa vượt qua cuộc hành trình dài băng Thái Bình Dương.
“Sao anh ấy tới đây được?”
“Nó bơi.” Bà nhìn tôi với ánh mắt tội nghiệp. “Bởi vậy nên nó mới ướt.”
“Ảnh bơi giỏi lắm đó,” tôi đùa cho bà vui. “Má thấy ảnh làm sao?”
“Y như hồi xưa.”
“Hăm lăm năm rồi. Ảnh không thay đổi gì hết sao?”
“Người ta lúc nào cũng y như lúc mình thấy lần cuối.”
Tôi nhớ anh ấy trông ra sao vào lần cuối đó, nó khiến mọi ý nghĩ cợt nhã trong tôi chợt tan biến. Vẻ sửng sốt trên mặt anh, đôi mắt mở to, mảnh ván vỡ ra từ sàn tàu ép vào ngực anh — tôi không muốn thấy lại hình ảnh ấy nữa, và vờ như đang nhìn thứ gì hoặc ai đó khác.
Sau khi má đi làm, tôi cố ngủ lại nhưng không được. Mỗi khi nhắm mắt thì anh ấy lại nhìn tôi đăm đăm. Lúc này tôi mới nhận ra đã mấy tháng rồi mình không nhớ tới anh.
Từ lâu tôi đã cố quên anh ấy, nhưng chỉ cần ngang qua một góc rẽ nào trong cuộc đời này hoặc trong tâm trí là tôi đâm sầm ngay vào anh, người bạn thân nhất của tôi.
Trong chừng mực còn nhớ được, tôi vẫn nghe thấy tiếng anh đang gọi ở ngoài ngôi nhà của chúng tôi. Ðó là tín hiệu để theo bước anh qua những đường ngang ngõ dọc trong làng, qua những vườn xoài vườn mít, lách tránh những cây dừa gãy đổ và hố bom để ra đến con rạch và cánh đồng.
Hồi đó, đấy là một tuổi thơ bình thường.
Nhưng giờ nhìn lại, tôi thấy rằng tụi tôi đã trải qua tuổi trẻ tại một xứ sở bị ma ám. Ba tôi bị động viên, và cả nhà sợ rằng ông có thể chẳng bao giờ trở về nữa.
Trước khi đi, ông đã đào một chỗ tránh bom kế bên nhà — một hầm trú ẩn đắp bao cát với nóc kết bằng cây gỗ.
Mặc dù nó nóng và ngộp, ngập mùi đất và lúc nhúc sâu bọ, nhưng lúc nhỏ tụi tôi vẫn xuống đó chơi. Khi lớn hơn, tụi tôi chui xuống hầm để học và kể đủ chuyện.
Tôi là đứa học giỏi nhất trường, đủ xuất sắc để ông thầy dạy thêm cho tôi tiếng Anh sau giờ học, những bài tôi cho anh học chung.
Bù lại, anh ấy kể tôi nghe những chuyện hoang đường, chuyện dân gian và dăm ba lời đồn đại. Khi máy bay gào rú trên trời và tụi tôi với má rúm vào nhau trong hầm, anh thì thầm kể chuyện ma vào tai tôi để tôi tạm quên.
Có điều, anh ấy nhấn mạnh, nó không phải chuyện ma. Ðó là chuyện có thật theo những nguồn đáng tin cậy, từ những bà già xưa nhai trầu và nhổ nước cốt trầu trong khi ngồi chồm hổm trong chợ, coi ngó mấy lò than hay mấy rổ hàng.
Những cư dân kiên trì ở lại mảnh đất của chúng tôi, theo lời họ kể, có cả nửa thân trên của một trung úy Ðại Hàn bị mìn tống bay lên mấy nhánh cây cao su; một gã Mỹ da đen bị lột da đầu nổi lềnh bềnh dưới con rạch không xa chỗ chiếc trực thăng rơi, đôi mắt và khối bán nguyệt của bộ óc gã lộ ra, lấp lánh trên mặt nước; một binh nhì Nhật bị chặt đầu mò mẫm trong những bụi khoai mì để tìm lại cái đầu.
Những kẻ xâm lăng đó đến để chiếm mảnh đất của chúng tôi và chẳng thể trở về quê nhà được nữa, mấy bà già kể, cười khùng khục và phô hàm răng nhuộm đen — hoặc như anh tôi kể lại thế.
Trong bóng tối, tôi hào hứng đến run người như tận tai nghe thấy tiếng những người đàn bà mắt đen, và tôi nghĩ có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ kể được những câu chuyện như thế.
Vậy có trớ trêu không khi tôi kiếm sống bằng nghề viết thuê?
Tôi tự chất vấn mình khi nằm trên giường vào buổi trưa, nhưng các bà mắt đen và răng đen đó nghe được tôi.
“Mày gọi thứ mày có đây là cuộc sống sao?”
Răng của họ kêu lạch cạch khi họ cười tôi.
Tôi kéo mền đắp lên tới mũi, theo kiểu tôi quen làm trong những năm đầu trên đất Mỹ, vì sợ những sinh vật không chỉ lẩn lút ở hành lang mà còn lang thang xung quanh nhà.
Ba má luôn nhìn qua màn cửa phòng khách trước khi đáp lại bất kỳ tiếng gõ cửa nào, vì ngại những đồng bào trẻ tuổi của mình — những cậu trai đã biết về bạo lực do lớn lên trong thời chiến.
“Ðừng mở cửa cho người lạ,” má cảnh báo tôi, một, hai, ba lần. “Mình đâu muốn kết thúc giống gia đình bị chĩa súng trói lại. Tụi nó dí thuốc lá vào thằng bé sơ sinh cho đến khi bà mẹ khai ra chỗ giấu tiền.”
Thời thanh niên Mỹ của tôi bị nhồi đầy những câu chuyện khốn nạn như thế, tất cả làm bằng chứng cho những điều má tôi nói — rằng chúng tôi không thuộc về nơi này.
Trong một xứ sở mà tài sản định giá trị mọi thứ, chúng tôi chẳng có của cải gì ngoài những câu chuyện.


