Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



TÁC GIẢ
Sau khi tốt nghiệp École normals supérieure, Jean-Paul Sartre (1905-1980) lấy bằng thạc sĩ Triết học vào năm 1929. Đây cũng chính là thời kỳ ông quen Simone de Beauvoir – triết gia, nhà văn nổi tiếng nước Pháp, người đã nhìn thấy ở Sartre một “bản sao đáp lại những mơ ước thời niên thiếu” để rồi trở thành bạn đời, người tri kỷ với Sartre đến tận những ngày cuối đời ông.
Trở về từ Thế chiến II, Sartre từ bỏ con người cá nhân chủ nghĩa mà ông từng là vào những năm 1930. Trong chiến tranh, ông đã viết tiểu luận đầu tay sau này trở thành tác phẩm quan trọng nhất của ông và cũng là tác phẩm trọn vẹn nhất về triết học hiện sinh, Tồn tại và hư vô. Những năm sau giải phóng, Jean-Paul Sartre trở thành cái tên nổi tiếng khắp giới trí thức Pháp, được coi như thủ lĩnh của phong trào hiện sinh đang là “mốt” lúc bấy giờ. Trong tạp chí Les temps modernes mà ông sáng lập năm 1945, ông đề cao sự dấn thân như một “mục đích tự thân”.
Jean-Paul Sartre luôn giữ niềm tin vào xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ, chống chủ nghĩa tư bản và đặc biệt, bài trừ chủ nghĩa đế quốc. Đến tận cuối đời, ông vẫn tiếp tục đấu tranh phản đối chiến tranh Algeria, phản đối tội ác của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ các thuyền nhân và người ly khai Xô viết… Năm 1964, ông từ chối nhận giải Nobel Văn học bởi với ông “không người nào xứng đáng được thừa nhận khi còn sống”.
TÁC GIẢ ——–
JEAN – PAUL SARTRE
(1905-1980)
Tặng madame Z.
Trong một bộ phim tư liệu về Jean-Paul Sartre được quay vào đầu thập kỷ 70 và công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 1976, bốn năm trước khi nhà văn qua đời, khi nhắc đến tác phẩm Ngôn từ, Sartre nói rằng ông viết cuốn sách này – cuốn tự truyện nhỏ về tuổi thơ của mình – để nói lời giã biệt với văn học, và ông đã muốn lời giã biệt ấy phải “được viết bằng một thứ văn đẹp”.
Đó là một cuốn tự truyện lạ lùng và một lời giã biệt lạ lùng.
Ý định viết cuốn “tự truyện-giã biệt” ấy bắt đầu nhen nhóm ở Sartre vào đầu những năm 50, lúc ông đang ở trên đỉnh cao sự nghiệp của mình. Sinh năm 1905, mất năm 1980, với tư cách là nhà văn, nhà triết học, nhà hoạt động xã hội, Sartre trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến đời sống tinh thần của xã hội Pháp trong nhiều thập kỷ giữa thế kỷ 20, đến mức mà có những người đã gọi giai đoạn này là “thế kỷ của Sartre”. Đầu thập kỷ 50 là thời mà giới trí thức Pháp còn đang say sưa với chủ nghĩa hiện sinh – trào lưu triết học mà Sartre là một trong những người khởi xướng ở Pháp, thời mà tên của Sartre gần như ngày nào cũng xuất hiện trên báo chí truyền thông, thời mà mỗi buổi diễn thuyết của ông đều đông nghẹt người, và, như hồi tưởng của nhà văn Philippe Sollers, hầu như ai trong giới trí thức, sinh viên Pháp lúc bấy giờ cũng ít nhiều là sartrien (người theo trường phái Sartre / chịu ảnh hưởng của Sartre). Thời điểm ấy, Sartre chưa nói đến chuyện “giã biệt văn học”.
TỰA
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí vào cuối năm 1953, khi đề cập đến dự án viết tự truyện mà ông đang ấp ủ, nhà văn lại nhấn mạnh một khía cạnh khác: theo ông, đó sẽ là một “tự truyện nhưng có tính chất xã hội và chính trị hơn là cá nhân, về quá trình tiến triển của những người thuộc thế hệ (của ông), từ 1905 cho đến Giải phóng (1945), đi qua các năm 1914, 1936, 1940”.
Những phác thảo đầu tiên của cuốn tự truyện hình thành vào năm 1954, nhưng sau vài lần viết rồi bỏ dở nửa chừng, phải đến đầu năm 1963 Sartre mới quay lại thực sự tập trung vào viết để hoàn thành bản thảo này. Ngôn từ ra mắt người đọc vào cuối năm 1963, thoạt tiên được in thành hai kỳ trong số tháng Mười và tháng Mười một của tạp chí Les Temps modernes, sau đó được in thành sách vào đầu năm 1964, chín tháng trước khi Sartre được trao giải Nobel văn học, giải thưởng mà nhà văn đã từ chối bởi không muốn bị ràng buộc vào bất cứ tổ chức nào, bởi ông cho rằng khi mình ký tên là “Jean-Paul Sartre, nhà văn đoạt giải Nobel” thì sẽ không còn giống với khi chỉ ký đơn giản là “Jean-Paul Sartre”. Và có lẽ còn bởi vì trong quan niệm của ông – một quan niệm hình thành từ thời thơ ấu, hằn sâu trong tâm trí cậu bé Poulou (tên gọi ở nhà của Sartre thuở nhỏ) và trở đi trở lại nhiều lần trên những trang sách Ngôn từ, – thì con người ta chỉ xứng đáng được vinh danh khi đã qua đời, cũng giống như một cuốn sách chỉ có thể được người đọc đánh giá khi đã gập lại trang cuối, và điều đó cũng có nghĩa là vinh quang đến cùng với sự chấm dứt: vinh quang đồng nghĩa với cái chết.
Ngay khi vừa ra mắt, Ngôn từ lập tức được đón nhận nồng nhiệt và đã góp phần quan trọng trong việc giải Nobel văn học được trao cho Sartre sau đó ít lâu. Giới phê bình văn học Pháp coi đây là “kiệt tác của tự truyện thế kỷ 20”, một sự đánh giá mà thoạt nhìn có vẻ như “quá cỡ” đối với một cuốn sách nhỏ chỉ chừng 200 trang, nội dung chỉ giới hạn ở hơn chục năm đầu đời của tác giả – từ 1905 đến 1917, – khiêm tốn hơn nhiều so với cái dự án quy mô ban đầu của chính Sartre về một tác phẩm “tự truyện xã hội-chính trị” trải dài qua mấy chục năm với nhiều biến cố lịch sử trọng đại.
Có gì đặc biệt ở những hồi ức tuổi thơ mà Sartre kể lại trong Ngôn từ? Đó không phải là một “tuổi thơ dữ dội” dù câu chuyện mở đầu bằng cái chết của người cha diễn ra đồng thời với trận ốm thập tử nhất sinh của cậu bé Poulou ngay lúc mới lọt lòng, và dừng lại khi nước Pháp vẫn đang chìm trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất. Theo cái nhìn của Sartre, cái chết quá sớm của người cha đã trao tự do cho cậu con trai (cái tự do khỏi bị bậc sinh thành uy quyền “cưỡi trên lưng” như hình tượng mà Sartre mượn ở thần thoại Hy Lạp để diễn tả), những cơn sốt mê man của cậu bé Poulou lại giúp cho cậu “được lợi” vì không phải trải nghiệm nỗi đau khi “nhát kéo cuối cùng đang cắt đi mối quan hệ mẫu tử”, còn cuộc đại chiến thế giới khốc liệt thì hầu như chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống thường nhật của Poulou ngoài việc khiến cậu bé “buồn chán” vì không được tiếp tục xem những tạp chí truyện tranh yêu thích phát hành trước chiến tranh. Tóm lại, dường như không có gì là bi kịch ở những sự kiện tưởng chừng bi kịch ấy.
Cũng hầu như chẳng có những kỷ niệm nhuốm vẻ đẹp thi vị của dĩ vãng thường thấy ở thể loại tự truyện – trừ một vài đoạn ngắn ngủi viết về bà mẹ của nhà văn – dù câu chuyện đề cập đến một quãng đời khá êm đềm của cậu bé Poulou, được bao bọc trong sự yêu thương chiều chuộng hết mức của mẹ và ông ngoại. Ngôn từ là một tự truyện không có những hoài niệm, cả ngậm ngùi cay đắng lẫn cảm động ngọt ngào.
Sartre không hoài niệm, ông mổ xẻ, phân tích, giải mã tuổi thơ của mình – bằng con mắt lạnh lùng, sắc sảo, không thương xót và đầy trải nghiệm của một nhà văn đứng tuổi, đứng tách hẳn ra cậu bé “ngông cuồng” là chính mình ngày xưa – để đi tìm câu trả lời cho một câu hỏi lớn: điều gì đã thúc đẩy ông đến với nghiệp văn chương? Sự mổ xẻ, phân tích, đánh giá rất lạnh lùng và sắc sảo ấy đã đem lại sắc thái đặc biệt cho Ngôn từ: với giọng điệu nổi bật là hài hước, mỉa mai, chế nhạo (chủ yếu là tự chế nhạo), xen lẫn với những suy tư triết học vừa chặt chẽ logic vừa phức tạp rắm rối nhưng đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre trở nên giống một tác phẩm châm biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện.
Sartre không bao giờ giải thích vì sao câu chuyện về đời ông trong Ngôn từ d


