Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng tôi đã nói trong phần thứ nhất, triết học Trung Hoa phát triển vào thời Chiến Quốc, thời mà xã hội Trung Hoa biến chuyển lớn lao để tiến từ chế độ phong kiến (gồm một vương quốc hữu danh vô thực và nhiều nước chư hầu khuynh loát lẫn nhau để tranh quyền bá chủ) qua chế độ quân chủ thống nhất chuyên chế (gồm một chính quyền tối cao độc nhất dẹp hết các nước chư hầu, chia giang sơn thành nhiều quận, huyện rồi tuyển người để giao việc cai trị mỗi quận, huyện dưới sự điều khiển của vị thiên tử).
Vì thời đó là một thời loạn, nên các triết gia Trung Hoa mới đưa ra một đạo lý để cứu vãn thời thế.
- Khổng Tử thì muốn bảo tồn chế độ phong kiến và khuyên mỗi người phải giữ địa vị, làm tròn bổn phận của mình.
- Lão Tử thì muốn trở lại đời sống tự nhiên ở trước hoặc đầu thời đại phong kiến.
- Mặc Tử thì chủ trương chuyên chế bằng đạo kiêm ái, và chính sách công lợi…
Các nhà đó tuy không nói ra nhưng đều mong thống nhất được Trung Quốc. Nhưng phương pháp của họ đều vô hiệu, và sau cùng, Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực và chính sách hình pháp của Hàn Phi mới “gom về được một mối”. Thì ra đạo lý không thể áp dụng được về chính trị trong thời loạn. Nhưng một khi nước đã trị rồi thì nó lại rất hữu ích. Muốn củng cố chế độ mới, nhà Hán tôn sùng học thuyết Khổng Tử vì học thuyết đó hợp thời hơn học thuyết của Lão, Trang, thực tiễn hơn học thuyết của Mặc Tử. Nhờ vậy mà lần lần, Khổng giáo được nâng lên địa vị độc tôn.
Từ đời Hán, Khổng giáo đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của Lão giáo và Âm Dương giáo. Tới đời Lục Triều lại chịu thêm ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ truyền qua, do đó sắc thái có thay đổi, tế nhị hơn, sâu sắc hơn, nhất là trong đời Tống – Nguyên vẫn giữ những nét chính, vẫn lấy sự trung dung, hợp thời làm trọng, vẫn nhằm sự an bang tế thế làm mục đích; như vậy vẫn luôn hai ngàn năm, mãi đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu bị lay chuyển tận gốc.
Vậy thì trong lịch sử triết học Trung Hoa, đạo Khổng chiếm địa vị quan trọng nhất mà phương tiện của đạo đó là CHÍNH và GIÁO. Nghĩa là dùng chính trị và giáo dục để cải hoá con người, mưu cầu một cuộc sống yên ổn trong xã hội có tổ chức. Cho nên ta có thể nói rằng đa số các triết gia Trung Hoa không tìm hiểu để hiểu biết mà tìm hiểu để giúp đời; họ nghiên cứu vũ trụ, tri thức và nhân sinh đều là vì nhân sinh; họ giống các triết gia thời cổ của Hi Lạp (như Platon, Aristote) hơn là giống các triết gia cận đại của Âu châu. Họ là những chính trị gia, luận lý gia.
Họ bàn đến vũ trụ, đến tri thức cũng chỉ rút ra ít nhiều kết quả mà áp dụng vào nhân sinh; hoặc làm cơ sở cho phần học thuyết về nhân sinh. Cho nên họ không tách rời vũ trụ, tri thức và nhân sinh, và ta thường thấy trong các tác phẩm của họ, câu trên nói về vũ trụ hoặc tri thức, câu dưới nói về nhân sinh. Chúng tôi sở dĩ phân biệt ra mà sắp vũ trụ luận vào phần thứ nhì, tri thức luận vào phần thứ ba, nhân sinh luận vào phần này là để cho dễ trình bày và độc giả dễ nắm được cái đại cương. Chứ bản ý của đa số các triết gia Trung Hoa không hề có sự phân biệt như vậy.
Phần này chia làm hai thiên:
- Bản chất con người.
- Sự tu dưỡng.
Thiên trên có tính cách lý thuyết, bàn về tâm lý nhiều hơn. Thiên dưới có tính cách thực tế chủ trọng về luận lý, về phép dạy dỗ người dân (dân hiểu theo nghĩa rộng) và phép đào tạo con người lý tưởng.
CHƯƠNG I
CON NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ
TRỜI VÀ NGƯỜI
NGƯỜI VỚI VẠN VẬT
Về vấn đề “con người trong vũ trụ”, tư tưởng cả dân tộc Trung Hoa không có gì đặc sắc.
- Như hầu hết các dân tộc khác, họ nhận rằng con người là một sinh vật rất nhỏ trong vũ trụ, chỉ như một hạt cát trong đại dương, mà đời người dù có được trăm năm thì so với thời gian vô cùng không đáng kể gì cả.
- Nhưng một mặt khác, họ cũng nhận rằng, nhờ tinh thần, trí khôn, con người giữ một địa vị trác việt trong vũ trụ, làm chúa tể được muôn loài. Sở dĩ tư tưởng đó được phổ biến chẳng những ở Trung Hoa mà còn ở khắp thế giới là vì nó là một sự thực ai cũng phải công nhận.
- Nhưng xét về đại thể và phần đông thì có những dân tộc bi quan (như Ấn Độ) hoặc lạc quan (như La Mã) hơn những dân tộc khác. Dân tộc Trung Hoa đứng vào khoảng giữa, và đa số các triết gia, họ lạc quan hơn là bi quan. Họ thường đề cao trí khôn và bản tính của con người mà họ tin rằng cái mầm thiện hoặc có thể cải thiện được, hơn là than thở về sự yếu ớt của con người, sự phù du của kiếp người, sự vô lý của đời người.
CHỦ TRƯƠNG BI QUAN
Trong nhóm bi quan, trước hết ta phải kể Trang Tử. Ông nhận thấy sự vô cùng của vũ trụ và sự nhỏ bé của chúng ta.
Trong Ngoại thiên, ông viết:
“Chúng ta ở trong khoảng trời đất, như hòn đá nhỏ, thân cây nhỏ ở trong núi lớn. (…) Kẻ bốn bể ở trong khoảng trời đất, có khác chi cái hố nhỏ ở trong cái chấm lăm không? Kẻ Trung Quốc ở trong bốn bể, có khác chi một hạt lúa nhỏ trong cái cám (vựa) lớn không? Số các loài vật có tới hàng vạn, mà loài người chỉ chiếm có một. (…) Vậy thì loài người so với vạn vật có khác gì cái máy lòng ở trên thân thể con ngựa không?” (Ngô tại thiên địa chi gian, do tiêu thạch tiêu mộc tại đại sơn dã. (…) Kế tứ hải tại thiên địa chi gian, bất dị lợi hố chi tại đại trạch hồ? Kể Trung Quốc chi tại tứ hải nội bất tể đề mễ chi tại thái thương hồ? Hiệu vật chi số vị chi vạn, nhân chi số nhất yên. (…))
“Thử kỳ ti vạn vật dã, bất tự hào mạt chi tại vu mã thế hồ?”¹
Ở Tạp thiên, ông lại còn ví loài người ở trong vũ trụ như những vi sinh vật ở sừng con ốc sên nữa. Ông bảo trên sừng bên tả con ốc sên có một giống vi sinh vật tụ tập với nhau mà sống như một quốc gia, trên sừng bên hữu con ốc sên có một giống vi sinh vật khác cũng tụ tập với nhau mà sống như một quốc gia khác, và hai “quốc gia” đó thỉnh thoảng gây chiến với nhau, bỏ thây hằng mấy vạn, đuổi nhau chạy dài cả nửa tháng rồi mới trở về.
Đó chỉ là một ngụ ngôn, nhưng đủ chứng tỏ rằng ông đã có ý niệm về cái cực lớn và cái cực nhỏ trong vũ trụ và cho rằng con người ở giữa hai cái thái cực đó.
Nhưng đây mới là phần bi quan trong tư tưởng của ông. Cũng trong Ngoại thiên, có đoạn:
“Thân của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó chỉ là cái hình hài mà trời đất giao phó cho anh đấy. (…) Tính mệnh của anh không phải là vật sở hữu của anh đâu, nó là do trời đ1ất giao phó cho anh đấy” (Như thân chi phi hữu dã (…) thì thiên địa chi ủy hình dã (…) Tính mệnh phi hữu, thị thiên địa chi ủy luận dã $^2$).
Nghĩa là con người phải phụ thuộc vào trời đất chứ không thể độc lập; đã là một ký sinh vật do tạo hoá ngẫu nhiên tạo nên thì ta không thể làm chủ tể được mà phải chịu sự chi phối hoàn toàn của vũ trụ.
CHỦ TRƯƠNG LẠC QUAN
Lão Tử cũng chủ trương phù hợp theo luật tự nhiên nhưng khởi điểm có khác; ông cho người cùng lớn như trời đất, vì trời đất với người chỉ là một, đều do đạo sinh ra cả.
Trong Thượng thiên, ông viết:
“Có vật trộn lộn mà thành. Nó sinh ra trước trời đất, vừa trống không vừa yên lặng, đứng một mình mà không biến cái, trôi đi khắp mọi nơi mà không mỏi, có thể làm mẹ của thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì nên mới đặt tên cho nó là đạo, gượng gọi nó là lớn. (…) Vậy đạo lớn, trời lớn, đất lớn, con người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo thì tự nhiên nhi nhiên”.
(Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập bất cải, chu hành bất đãi, khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi chi viết đạo, cưỡng vị chi chi viết đại. (…) Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, vương diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi vương cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên nhi nhiên).


