Tải FREE sách Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam Dưới Các Vua Triều Nguyễn PDF

Tải FREE sách Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam Dưới Các Vua Triều Nguyễn PDF

Tải FREE sách Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam Dưới Các Vua Triều Nguyễn PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Kinh Tế Và Xã Hội Việt Nam Dưới Các Vua Triều Nguyễn PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

  • Thư mục phê bình về sự liên hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây. (Bibliographie critique sur les relations entre le Viet Nam et I’Occident) Paris, Maisonneuve et Larose 1967.
  • Bán đảo Ân Độ từ 1857 đến 1947 (La péninsule indienne de 1857 à 1947), Saigon: 1ere éd. Trình bày 1968; 2e éd. Lửa Thiêng, 1971.
  • Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn (Economie et société du Vietnam sous la dymastie des Nguyên). Saigon 1ere éd. Trình bày, 1968; 2e éd. Lửa Thiêng, 1970
  • Lịch sử Hoa Kỳ từ độc lập đến chiến tranh Nam Bắc (Histoire des Etats-Unis de l’indépendance à la Guerre de Séccession). Saigon: Lửa Thiêng, 1969.
  • Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (Le Vietnam sous la domination française). Saigon 1ere éd. Lửa Thiêng, 1970, 391.:; 2e éd. Trung Tâm sản Xuất Học Liệu, 1974.
  • Khí hậu – Đại cương và các khí hậu nóng (Climatologie – Généralités et climats chauds), Saigon: Lửa Thiêng, 1971.
  • Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á (trừ Việt Nam) từ nguyên sơ đến thế kỷ thứ XVI (Histoire des pays de I’Asie du Sud Est, à I’exception du Vietnam, des origines au XVIe siècle) Saigon: Lửa Thiêng, 1972.
  • Phong trào kháng thuế ở miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân (Le mouvement de protestation contre les impôts en 1908 au Centre Vietnam, à travers les documents rouges du règne de Duy Tân). Saigon: Bộ VHGD và TN, 1973.
  • Nhập môn phương pháp sử học (Introduction à la méthodologie historique). Saigon: Département d>Histoire. Faculte des Lettres, Université de Saigon, 1974.
  • La monarchie des Nguyễn de la mort de Tự Đức à 1925 (Thế chế triều Nguyễn từ cái chết của Tự Đức đến năm 1925) Paris, Univ, Paris-Sorbonne, 1987.
  • Le Đại Việt et ses voisins, d ’ après le Đại Việt sử Ký Toàn Thư (en collaboration avec Bùi Quang Tung et Nguyên Hương). Paris: L’Harmattan, 1990.
  • Monarchie et fait colonial au Vietnam (1875-1925). Le crépuscule d ’ un ordre traditionnel (Thể chế quân chủ và sự kiện thuộc địa tại Việt Nam (1875-1925). Buổi hoàng hôn của một trật tự truyền thống. Paris: L’Harmanttan, 1992.
  • Notes sur la culture et la religion en Péninsule indochinoise, en hommage à Pierre-Bernard Lafont (co-éd, avec Alain FOREST). Paris: L’Harmattan, 1995, 252 p.
  • Guerre et paix en Asie du Sud-Est (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Nam châu Á) (co-éd, avec Alain FOREST). Paris: L’Harmattan, 1998, 336p.
  • Commerce et navigation en Asie du Sud-Est, XIVe – XIXe siècles (Kinh tê và hàng hải ở Đông Nam châu Á từ thế kỉ XIV-XIX) – Trade and navigation in Southeast Asia. 14é – 19s centuries (c o -é d , avec Yoshiaki ISHIZAW A). Paris: L’Harmattan, 1999, 190p.
  • L’Asie orientale et méridionate aux XIXe et XXe siècles. Chine, Corée, Japon, Asie du Sud-Est, Inde. (en coll, avec Hartmut o. ROTERMUND, Alain DELISSEN, Francois GIPOULOUX, Claude MARKOVITS), Paris: Presses Universitaires de France (Nouvelle Clio), 1999, ccxliv-564 p.
  • Into the Maelstrom: Vietnam during the Fateful 1940s. Westminster, CA: Viên Việt Học, 2005, v-53 p. (Vietnam Culture Series n°3).
  • Và nhiều chuyên luận sử học (Pháp, Anh ngữ) trên các tạp chí trong và ngoài nước.

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Cuốn Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ này được viết và xuất bản ở Sài Gòn cách đây 40 năm (1970) khi môn lịch sử Việt Nam được giảng dạy bằng tiếng Việt ở các trường Đại học Sài Gòn. Tác giả từng là Giáo sư Giám đốc nghiên cứu trường Cao đẳng thực hành Sorbonne – Paris (Directeur d’Etudes Ecole pratique des Hautes Etudes, Paris-Sorbonne) cộng hòa Pháp mà cũng là một giáo sư biệt thỉnh tại Hoa Kì…

Môn Việt sử thời đó chưa được nhiều người quan tâm lắm, nhưng nội dung vấn đề được tác giả tham khảo từ nhiều nguồn từ liệu (Anh, Pháp, Hán, Việt…) quí hiếm để dựng lại một thời quá vãng của lịch sử dân tộc. Đây là một trong nhiều tác phẩm tiêu biểu của tác giả về lịch sử cận, hiện đại Việt Nam [(Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều Nguyễn (1970), Phong trào kháng thuế ở miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân (1973), Thể chế quân chủ và sự kiện thuộc địa tại Việt Nam (1875-1925). (Buổi hoàng hôn của một trật tự truyền thống (1992) Monarchie et colonial au Vietnam (1875-1925), Le Crépuscule d’une Ordre traditionnal)… và cuốn này,] của chuyên ngành lịch sử Việt Nam.

Nhận thấy tác phẩm là một tài liệu Lịch sử – Văn hóa – Xã hội thâm cứu, NXB Văn học được sự đồng ý của tác giả xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc xa gần để tham khảo trong lĩnh vực chuyên môn. Trong lần in này chúng tôi in theo bản in năm 1970, NXB chỉ biên tập một số các thuật ngữ thông dụng và vài chi tiết về cú pháp.

Nhà xuất bản mong nhận được ý kiến đóng góp của các học giả và độc giả.

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC


LỜI NÓI ĐẦU

Cho tới ngày nay, các sử phẩm về Việt Nam vẫn còn dành cho các sự kiện kinh tế và xã hội một địa vị quá khiêm tốn, chỉ chú trọng tới sự diễn tiến chính trị. Tình trạng chênh lệch này rất có hại cho sự hiểu biết tường tận về con người Việt Nam trong quá khứ, không phải chỉ là các ông vua, ông quan trong triều, mà còn chính là người thường dân trong đời sống hàng ngày của họ.

Chúng ta phải nhìn nhận là cơ cấu kinh tế căn cứ trên các cách thức sản xuất, qui định một phần lớn những thực hiện của một quốc gia, một dân tộc: các thể chế chính trị và pháp luật, các hoạt động tinh thần, các tín ngưỡng tôn giáo.

Trong quyển sách nhỏ này, người viết không có tham vọng đề cập tới tất cả mọi khía cạnh của kinh tế và xã hội Việt Nam, mà chỉ đặt lại vài vấn đề liên hệ tới đời sống vật chất của người dân Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Đặt lại vấn đề, mà đôi khi không giải quyết, bởi vì chưa tiếp xúc được kỹ lưỡng hơn với các tài liệu đầu tay, hoặc không đủ tài liệu để phán đoán. Đây không phải là khiếm khuyết độc nhất, mà những nhận xét của người viết có thể còn chứa đựng nhiều nhầm lẫn, cần phải được điều chỉnh. Song, nguyện vọng của người viết là đặt một trong những viên gạch đầu cho sự hiểu biết sâu rộng hơn về lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XIX, một lịch sử toàn diện, không còn tự giới hạn trong phạm vi những sự kiện chính trị. Có lẽ vì đã chỉ chú trọng tới những sự kiện chính trị này mà chúng ta đã đánh giá một cách sai lầm chính sách kinh tế của các vua nhà Nguyễn. Một ví dụ: chính sách “bế quan toả cảng” thường được nhắc tới, nếu suy xét kỹ, chứa đựng những sự thật rất tế nhị, cho thấy vua nhà Nguyễn đã không khăng khăng cố thủ trong một lập trường đóng chặt nước Việt Nam với mọi ảnh hưởng từ bên ngoài tới.

Trong xã hội Việt Nam của thế kỷ XIX, có nhiều dấu hiệu của một sự đổi thay rộng lớn đương bồng bột lên men, trong những thể chế chính trị đã tỏ ra là cũ kỹ, không thích ứng nữa. Mong rằng các nhà thức giả sẽ bắt tay vào công cuộc khảo cứu cho phép chúng ta biết nhiều hơn về xã hội này.

Tuy trong lần in thứ nhì, cuốn sách nhỏ này được tăng bổ và sửa chữa, người viết tự biết là cũng vẫn còn nhiều khiếm khuyết, mà phần lớn vẫn là do tình trạng thiếu thốn tài liệu. Dám mong độc giả hiểu cho điều này mà lượng thứ.

Nguyễn Thế Anh


CHƯƠNG I: DÂN CƯ VIỆT NAM DƯỚI CÁC VUA NHÀ NGUYỄN

Việc nghiên cứu dân số Việt Nam trong thế kỷ XIX là một việc khó làm, trong một giai đoạn mà hệ thống hộ tịch với những sổ khai sinh tử và giá thú chưa được thành lập. Nếu con trai mới lớn phải “vào làng” (nghĩa là được đăng vào sổ hạng của thôn xã), thì lệ ấy không được áp dụng đối với con gái. Tài liệu thống kê như thế rất thiếu thốn, cho nên khó lòng biết được một cách đích xác tình trạng nhân khẩu của nước Việt Nam dưới thời các vua nhà Nguyễn.

I. DÂN SỐ

Sinh hoạt quốc gia đòi hỏi những phương tiện tài chính cần thiết cho sự hoạt động của guồng máy chính trị, vì thế cần phải có những dữ kiện nhân khẩu để dựa trên ấy mà đánh thuế dân chúng và tuyển lính. Đây là một vấn đề cấp bách, nên ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, ra lệnh cứ năm năm một lần lại duyệt binh, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào đinh bộ số đàn ông trong làng từ 18 tuổi trở lên, 60 tuổi trở xuống. Cách thức làm sổ đinh được qui định rõ rệt bởi một đạo dụ công bố năm Gia Long thứ VI (1); các xã trưởng được lệnh kê khai một cách đích thực các hạng người trong bản xã về số đinh từng hạng.

Năm 1839, một đạo dụ của vua Minh Mạng sửa đổi lại danh sách sổ đinh các địa phương, và phân biệt những hạng người sau (2):

  • Đinh hạng, gồm dân đinh từ 18 đến 20 tuổi và từ 55 đến 60 tuổi.
  • Tráng hạng, gồm dân đinh từ 20 đến 55 tuổi.
  • Quân hạng, gồm những tráng đinh được tuyển vào ngạch binh.
  • Chức sắc hạng, gồm những người có quan chức từ nhất phẩm đến tùng cửu phẩm, các viên tiến sĩ, cử nhân, tú tài, và các viên tử (tức là con quan từ nhất phẩm đến tam phẩm).
  • Miễn sai hạng, gồm các hạng nhiêu, ấm, lại dịch, binh lính, thợ thuyền các sở công.

Sự thiết lập các đinh bộ có mục đích cốt yếu là để hoạch định số thuế thân mà mỗi làng phải trả cho chính phủ. Chúng ta có thể phân biệt ba hạng người trả thuế khác nhau:

  • Hạng thứ nhất, hay là tráng hạng phải chịu tất cả các phụ đảm: thuế má, binh dịch và sưu dịch.
  • Hạng thứ hai, được miễn binh dịch và sưu dịch, nhưng phải chịu nửa thuế thân, gồm có dân đinh từ 18 đến 20 tuổi và từ 55 đến 60 tuổi, những người mới mắc phải bệnh tật khó chữa, những phu trạm và lính lệ.
  • Hạng thứ ba, được miễn thuế thân cũng như sưu dịch, gồm các người dân trên 60 tuổi, những người tàn tật vĩnh viễn, các hạng chức sắc và miễn sai.

Cũng được ghi vào trong đinh bộ: Những dân nội tịch chết từ lần làm sổ đinh trước (tử hạng), những người can án, những dân đinh bỏ trốn khỏi làng (đào chú bộ). Vì số dân đinh của một làng không thể được giảm, cứ mỗi dân đinh mất đi, làng phải chỉ định một người khác để thay thế: sau này, nếu những người đào tẩu trở về làng lại, họ được đăng bạ trở lại, nhưng những người thay thế sẽ vẫn được lưu lại trong sổ.

Về lệ thuế, có một vài sự sửa đổi qua các triều vua. Đầu triều Gia Long, còn được phân biệt những người chính hộ (dân chánh quân) và những người khách hộ (người nơi khác tới ở ngụ trong làng); hạng người thứ hai được đánh thuế nhẹ hơn. Sự phân biệt này hình như sau này không còn được duy trì nữa:

‘Thuế thân thì các xã, thôn, phường từ Quảng Bình đến Gia Định, tráng hạng, chính hộ tiền thân dung 1 quan 6 tiền, khách hộ 1 quan 4 tiền.

Quân hạng, chính hộ 1 quan 4 tiền, khách hộ 1 quan 2 tiền.


  • (1) Đại Nam Hội điển sự lệ. Sài Gòn, 1962, tr.169.
  • (2) Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, q.199.