Tải FREE sách Lịch Sử Triết Học Phương Đông Tập 3 PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Triết Học Phương Đông Tập 3 PDF

Tải FREE sách Lịch Sử Triết Học Phương Đông Tập 3 PDF là một trong những Sách lịch sử đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Lịch Sử Triết Học Phương Đông Tập 3 PDF đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

TỰA

Giới thiệu triết học Ấn Độ, triết gia Ấn hiện đại S.RADHAKRISHNAN viết đoạn văn khúc chiết như sau:

“Triết học của chúng tôi đã gắn ba ngàn năm lịch sử còn ghi và đã lập cuộc trên một số nguyên lý trọng tâm chi phối đất này hàng bao thế kỷ. Trong số ấy có một nguyên lý chính là sự thành tựu tối cao của nhân loại cốt ở tại sự mở mang đầy đủ các phương diện của nhân tính, thân thể, trí thức và tâm linh. Chỉ có sự nảy nở vật lý hay lành lợi trí thức thì không đủ. Thực hiện tâm linh là mục đích của sự cố gắng của nhân loại. Để đạt tới mục đích ấy thì không làm gì có những con đường chỉ định cả. Bởi vậy cho nên kể từ bước đầu trong lịch sử văn hóa Ấn Độ, trên đất này đã có nhiều tôn giáo sống chung. Dân ARYEN và dân DRAVIDEN, Ấn giáo và Phật giáo, Do Thái và Cơ đốc, Ba Tư giáo và Hồi giáo, tất cả đều được nhân dân Ấn Độ giang tay đón lấy, và các hệ thống tư tưởng và thực hành đều có thể phát triển tùy theo thiên tài tự nhiên của chúng. Trên trường quốc tế ngày nay, chúng tôi cũng đang bênh vực cho cái chính sách thượng tựa của sự ‘Hãy sống và hãy để cho người khác sống với’.”

TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ trích trong Occasional Speeches and writings S.RADHAKRISHNAN


Mấy lời giới thiệu vắn tắt ấy cho ta thấy cái tinh túy của triết học Ấn Độ. Cái tinh túy ấy ở tại đặc tính hiện nhân bản tâm linh chứ không phải tìm hiểu bằng trí thức cái tâm linh ấy mà thôi. Triết học Ấn Độ cũng như triết học Trung Hoa và toàn thể khuynh hướng tư tưởng Phương Đông không mang nguyên với suy luận trí thức, nó vẫn giữ được tính truyền thống từ thời tối cổ của hỗn thơ VEDA hay hỗn thơ KINH THI và CA DAO.

Có điều khác biệt giữa triết học Trung Hoa và Ấn Độ là Kinh Thi xuất phát từ cái tâm hồn của đại chúng hay là ý thức tập thể, mà thơ Veda lại xuất phát từ cái tâm hồn của các cá nhân siêu phàm, hay là siêu thức. Cả hai thi phẩm đều là tiếng nói của tình cảm, tiếng của tơ lòng. Tơ lòng của đại chúng với tơ lòng của cá nhân cùng gặp nhau khi nào cũng căng thẳng, hồn nhiên, nhiệt thành, chân thật theo cái định luật tâm lý: “Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”.

Đại chúng nhìn sự vật chung quanh mà cảm hứng tới cái đẹp của nghĩa lý nhân sinh, như đạo vợ chồng quân tử:

  • Quan quan thư cưu
  • Tại hà chi châu
  • Yểu điệu thục nữ
  • Quân tử hảo cầu.

Cá nhân nhìn sự vật thiên nhiên để tìm cảm thông với cái đẹp huyền diệu, cái đẹp siêu nhiên.

  • Hãy đứng lên
  • Nguồn sống linh động đã đến với ta
  • Đêm tối đã tan
  • Ánh sáng đã chiếu
  • Ánh sáng dọn đường cho mặt trời tiến bước
  • Chúng ta đã tới trước sự sống lâu dài của nhân loại. Thị tụng Rạng Đông – (RIG. VEDA X 127)

Một đàng hướng về nguồn sống xã hội, một đàng hướng về nguồn sống tâm linh, cả hai đều biểu thị khát vọng yêu đời.

Các “Hiền triết thấu thị” (Rishis) của thơ Veda diễn đạt ra lời một trạng thái sống linh động của thực tại siêu nhiên. Lúc xuất thần các Ngài đã “kiến tính”, đã thấu thị và tiếp nhận nơi tinh thần giác ngộ cái đại chân lý lại đối động, bất từ và khách quan hơn là các Ngài quan niệm ở ý thức.

Chân lý, như SHRI AUROBINDO đã viết, là mục đích tối cao mà các nhà thần bí ấy theo đuổi, một chân lý tâm linh hay nội tại, cái chân lý ở tại nơi ta, cái chân lý của sự vật, cái chân lý của nhân gian và của thần tiên, cái chân lý ẩn đằng sau tất cả cả hiện hữu của chúng ta và của sự vật”.

(La clef du Veda – Approches de l’Inde) S.AUROBINDO.

Cái khuynh hướng mỹ cảm tâm linh ấy nhìn thấu qua các sắc thái tạo vật thiên nhiên để cảm thông với cái hài điệu huyền bí ở thơ Veda đã thấm nhuần tinh thần văn hóa và triết học Ấn Độ như thi hào R.TAGORE gần đây đã giới thiệu:

“The Infinite for its self-expression comes down into the manifoldness of the finite; and the Finite for its self-realisation must rise into the unity of the Infinite. Then only is the cycle of truth complete”

(CREATIVE UNITY)

= Cái Vô hạn vì sự tự biểu hiện của mình đã hạ xuống trong thiên hình vạn trạng của cái Hữu hạn; Và cái Hữu hạn vì sự tự thực hiện của mình phải vượt lên cái duy nhất của Vô hạn. Có như thế thì bấy giờ vòng chân lý mới hoàn toàn đầy đủ.

(DUY NHẤT SÁNG TẠO)

LỜI MỞ ĐẦU (Tiếp theo)

  • Nhân sinh đều là vì nhân sinh; họ giống các triết gia thời cổ của Hi Lạp (như Platon, Aristote) hơn là giống các triết gia cận đại của Âu châu. Họ là những chính trị gia, luận lý gia.
  • Họ bàn đến vũ trụ, đến tri thức cũng chỉ rút ra ít nhiều kết quả mà áp dụng vào nhân sinh; hoặc làm cơ sở cho phần học thuyết về nhân sinh. Cho nên họ không tách rời vũ trụ, tri thức và nhân sinh, và ta thường thấy trong các tác phẩm của họ, câu trên nói về vũ trụ hoặc tri thức, câu dưới nói về nhân sinh.
  • Chúng tôi sở dĩ phân biệt ra mà sắp vũ trụ luận vào phần thứ nhì, tri thức luận vào phần thứ ba, nhân sinh luận vào phần này là để cho dễ trình bày và độc giả dễ nắm được cái đại cương. Chứ bản ý của đa số các triết gia Trung Hoa không hề có sự phân biệt như vậy.

Phần này chia làm hai thiên:

  1. Bản chất con người.
  2. Sự tu dưỡng.

Thiên trên có tính cách lý thuyết, bàn về tâm lý nhiều hơn. Thiên dưới có tính cách thực tế chủ trọng về luận lý, về phép dạy dỗ người dân (dân hiểu theo nghĩa rộng) và phép đào tạo con người lý tưởng.


TRIẾT HỌC TRUNG HOA (Bối cảnh và Ảnh hưởng)

  • Triết học Trung Hoa phát triển vào thời Chiến Quốc, thời xã hội biến chuyển từ chế độ phong kiến qua chế độ quân chủ thống nhất chuyên chế.
  • Vì thời đó là thời loạn, các triết gia Trung Hoa đưa ra một đạo lý để cứu vãn thời thế:
    • Khổng Tử muốn bảo tồn chế độ phong kiến và khuyên mỗi người phải giữ địa vị, làm tròn bổn phận.
    • Lão Tử muốn trở lại đời sống tự nhiên ở trước hoặc đầu thời đại phong kiến.
    • Mặc Tử chủ trương chuyên chế bằng đạo kiêm ái, và chính sách công lợi.
  • Các nhà đó tuy không nói ra nhưng đều mong thống nhất được Trung Quốc. Nhưng phương pháp của họ đều vô hiệu, và sau cùng, Tần Thủy Hoàng dùng vũ lực và chính sách hình pháp của Hàn Phi mới “gom về được một mối”.
  • Sau khi nước đã trị, nhà Hán tôn sùng học thuyết Khổng Tử vì học thuyết đó hợp thời và thực tiễn hơn các học thuyết khác. Nhờ vậy mà lần lần, Khổng giáo được nâng lên địa vị độc tôn.

Sự thay đổi của Khổng giáo

  • Từ đời Hán, Khổng giáo đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của Lão giáoÂm Dương giáo.
  • Tới đời Lục Triều lại chịu thêm ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ truyền qua, do đó sắc thái có thay đổi, tế nhị hơn, sâu sắc hơn, nhất là trong đời Tống – Nguyên vẫn giữ những nét chính, vẫn lấy sự trung dung, hợp thời làm trọng, vẫn nhằm sự an bang tế thế làm mục đích.
  • Khổng giáo chiếm địa vị quan trọng nhất mà phương tiện của đạo đó là CHÍNH và GIÁO. Nghĩa là dùng chính trị và giáo dục để cải hoá con người, mưu cầu một cuộc sống yên ổn trong xã hội có tổ chức.