Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



MỤC LỤC
| Trang | Nội dung |
| LỜI MỞ ĐẦU | |
| 1 | |
| PHẦN I | Thời tiền sử và sơ sử |
| 3 | Chương 1. Thời kỳ tiền sử và sơ sử |
| PHẦN II | Thời sơ kỳ vương quốc Champa (thế kỷ II – X) |
| 17 | Chương 2. Giai đoạn Sinhapura (từ đầu đến khoảng năm 750) |
| 35 | Chương 3. Giai đoạn Virapura (khoảng 750 – 850) |
| 48 | Chương 4. Giai đoạn Indrapura (khoảng 850 – 982) |
| PHẦN III | Thời kỳ Vijaya (thế kỷ X – XV) |
| 76 | Chương 5. Sự thống nhất và phát triển của Champa (thế kỷ XI – XIII) |
| 92 | Chương 6. Giai đoạn phát triển thịnh đạt của Vương quốc Champa (1220-1353) |
| 105 | Chương 7. Giai đoạn khủng hoảng (1353-1471) |
| PHẦN IV | Sự phát triển kinh tế – xã hội Champa |
| 110 | Chương 8. Sự phát triển kinh tế – xã hội |
| 137 | Chương 9. Sự phát triển kinh tế và phân hóa xã hội |
| 149 | Chương 10. Bộ máy triều đình và tổ chức quản lý nhà nước |
| 157 | Chương 11. Sự phát triển văn hóa |
| PHẦN V | Champa thời hậu kỳ (sau năm 1471) |
| 183 | Chương 12. Sự xuất hiện tình thế mới |
| 193 | Chương 13. Tôn giáo và tín ngưỡng của người Chăm từ 1471 đến nay |
| 213 | Chương 14. Từ trấn Thuận Thành tới tỉnh Bình Thuận |
| 229 | Chương 15. Sự hội nhập và phát triển |
| PHỤ LỤC I | 239 |
| PHỤ LỤC II | 306 |
| TÀI LIỆU THAM KHẢO | 345 |
LỜI MỞ ĐẦU
Quyển sách này vốn là một phần giáo trình Lịch sử Việt Nam của Khoa Sử – Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội từ năm 1983, sau, do nhu cầu, đã được bổ sung tương đối có hệ thống, dùng làm tài liệu nghiên cứu chuyên ngành cho các khóa học viên cao học và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội và Viện Khảo cổ học Việt Nam từ năm 1990 đến nay.
Lịch sử Việt Nam nói chung và từng chuyên ngành nói riêng vẫn còn có ít tài liệu tham khảo. Trong lời nói đầu sách Vương quốc Champa của G.Maspéro, lần tái bản, Paris năm 1988, có đoạn viết: “Xuất bản lần đầu trong khoảng năm 1910 và 1913, cuốn Vương quốc Champa trở thành một tác phẩm cần thiết và không thay thế được, giữ vị trí xứng đáng của sách chọn, trong loạt sách không tìm đâu thấy (introuvables) của chúng tôi”. Thế nhưng, điều đó thật là lạ, thật mâu thuẫn, bởi vì quyển sách này đã có tuổi thọ gần một thế kỷ, đã hai lần có ý kiến phê bình (năm 1914 và 1928), nhưng dường như vẫn không có sửa chữa gì. Thực ra, ít nhất thì nó cũng đã quá xưa cũ, cả về tài liệu và quan niệm. Những chỗ sai (ví như sự đánh giá thế kỷ XIII và XIV) đã bị khơi sâu, gây tâm lý tị hiềm trong lòng dân tộc. Những năm vừa qua, có ít nhất hai hội nghị khoa học quốc tế về Champa, trong đó những báo cáo và thảo luận không tránh khỏi có điều đúng, điều sai.
Chúng tôi nhận thức được, trong yêu cầu đào tạo và nghiên cứu lịch sử chuyên ngành hiện nay, có thêm tài liệu tham khảo là điều cần thiết; song, cung cấp những hiểu biết hệ thống và đúng đắn về những sự kiện lịch sử diễn ra trên đất nước Việt Nam, nhận thức đúng về tiến trình lịch sử và về thành tựu văn hóa càng cần thiết hơn cho sự phát triển của lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam, nên đến nay, tài liệu được sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh để ra mắt, mong góp phần đáp ứng yêu cầu đó.
Là giáo trình chuyên ngành nên cách viết có phần là dành cho sinh viên đã có ít nhiều hiểu biết cơ sở, có chỗ hàm ý thảo luận với tác giả khác ở trong và ngoài nước, có chỗ trình bày khác các tác giả khác, hàm ý tu chính. Tuy sách chuyên ngành vẫn thường đi liền với giảng – diễn giải, tác giả hy vọng nó vẫn được bạn đọc thông cảm, tiếp nhận một cách nhẹ nhàng, lý thú. Để tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học, chúng tôi giới thiệu trong danh mục “Tài liệu tham khảo” một số nguồn tài liệu gốc và cũng cung cấp một số tài liệu gốc như bản dịch văn bia Champa, bản dịch đoạn liên quan trong thư tịch cổ Trung Hoa.
Với mục đích và công việc như thế, chắc không tránh khỏi sai sót, tác giả chân thành đón chờ sự góp ý của sinh viên, sự phê bình, chỉ bảo của các nhà nghiên cứu.
TÁC GIẢ
PHẦN I: THỜI KỲ TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Chương 1: THỜI KỲ TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Vương quốc Champa hình thành và phát triển trên dải ven biển miền Trung Việt Nam và một phần cao nguyên Trường Sơn; lúc lớn mạnh nhất trải dài từ Hoành Sơn, sông Gianh ở phía bắc đến sông Dinh – Hàm Tân, ở phía nam đến lưu vực Krông Pô Kô và sông Đà Ràng trên Tây Nguyên. Về phía đông, họ thực sự làm chủ cả vùng ven Biển Đông cùng với dãy đảo gần bờ. Cư dân – chủ nhân của vương quốc này là người Chăm.
Trước đây còn gọi là Chàm, Chiêm, nói tiếng Malayo – Polynesian. Ngày nay một bộ phận người Chăm nói tiếng Malayo – Chamic, giữ văn hóa truyền thống Champa vẫn sinh sống ở đất cũ, ven biển miền Trung, hoặc đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam.
Một bộ phận khác không ít, khoảng 2 vạn người, sống ở tỉnh Bình Định và Phú Yên, tự gọi là người Chăm Hơroi, cùng nói tiếng Malayo – Chamic, nhưng lại không biết chữ Chăm và không gắn bó gì với văn hóa Champa.
Ngoài ra, còn có gần 400.000 người nói tiếng Malayo – Polynesian sống thành vùng trên Tây Nguyên như người Raglai, Êđê, Gia Rai, Churu…
Như vậy hẳn là vốn không có một tộc gọi là Chăm riêng biệt ngay từ đầu mà chỉ là một bộ phận dân cư nói tiếng Malayo – Polynesian. Những người nói tiếng Malayo – Polynesian cư trú rất rộng trên vùng đảo tây – nam Thái Bình Dương, tây Ấn Độ Dương mà một bộ phận của họ tự gọi là “Người biển” (Orang Laut); một bộ phận khác tự gọi là “Người rừng” (Orang Giai/ Raglai/ Gia Lai); như muốn đối xứng với những dân nói ngôn ngữ Nam Á – Môn Khơme cùng sống ở cao nguyên miền Trung Việt Nam có lẽ từ xưa hơn, tự gọi là Người (miền) núi (Mnong, Pnong). Như thế, một bộ phận sống ở ven biển miền Trung Việt Nam ngày nay được gọi là người Chăm là do gắn với Champa, từ khi họ lập vương quốc Champa.
Nhưng như thế, cư dân cổ nhất sống trên lãnh thổ miền Trung Việt Nam là ai? Người Chăm đã có mặt từ bao giờ? Họ có đúng là đã lập nước Champa không? Sử học đã theo đuổi nghiên cứu vấn đề này từ hàng chục năm nay mong tìm ra lời giải đáp đáng tin cậy.
Cuộc khai quật khảo cổ học có quy mô tương đối lớn, khoảng 12.000m², trên vùng hồ Yaly có thể bị ngập nước khi làm thủy điện Yaly vào tháng 7 – 8 năm 2001, đã đem lại nhiều hiểu biết lý thú. Theo báo cáo, ở lớp dưới, bên trong và bên dưới lớp đất laterit hóa đã thấy một số công cụ đá ghè đẽo, có vài viên bằng cuội, rất giống hậu kỳ đá cũ. Lớp đất và dạng công cụ khiến hoàn toàn có thể tin được ở đây có một thời hậu kỳ đá cũ của dân bản địa trước đầu thiên kỷ I trước Công nguyên. Việc phát hiện đồ đá cũ trong tầng văn hóa có niên đại sớm ở Tây Nguyên là điều tương đối hiếm và như thế, điều đó cũng đã nói lên cư dân bản địa đã sinh sống từ rất lâu đời trên Tây Nguyên. Có lẽ họ là lớp cư dân nói tiếng Môn Khơme (đúng ra là Môn cổ) còn sinh sống hiện nay ở đây với tỷ lệ khá cao, khoảng 400.000 trên 1.000.000 dân. Từ đầu thiên kỷ I trước Công nguyên, có sự biến chuyển dân cư ở đồng bằng ven biển và không thể không ảnh hưởng tới dân cư trên cao nguyên. Bên trên của một lớp văn hóa đá cũ hậu kỳ khá mỏng, lại thấy đột ngột và dày đặc những mộ chum có đựng mảnh gốm, những công cụ đá mới hậu kỳ, đồ trang sức, một ít dấu vết của đồ đồng và sắt, cho thấy có mối liên hệ hiển nhiên giữa văn hóa sơ kỳ sắt trên cao nguyên và vùng ven biển miền Trung. Một số nhà khảo cổ nghĩ dường như trên cao nguyên, nhất là ở đây, ở Kon Tum, không thực sự có một thời kỳ đá mới, mà từ đá cũ nhảy thẳng sang, với sự có mặt của một lớp cư dân mới có nền văn hóa cao hơn, đến cộng cư, cùng xây dựng cao nguyên và vẫn giữ mối liên hệ với dân ven biển. Dường như có một sự di chuyển dân cư, đặc biệt là của người Nam Đảo (Austronesians). Điều này đã được nhiều học giả quan tâm thảo luận. Những người này đi theo những hướng nào và đến những nơi đâu? Ở Việt Nam, có lẽ họ đi từ Biển Đông vào định cư ở ven bờ biển suốt chiều dài từ Bắc đến Nam, mang đến sự giao lưu văn hóa lục địa – biển, để lại dấu ấn của nền văn hóa biển trên các nền văn hóa sơ kỳ kim khí, như Hạ Long, Quỳnh Văn cho đến Long Thạnh, Bình Châu ở miền Trung, những nền văn hóa tiền sử, được coi là văn hóa Tiền Sa Huỳnh, những văn hóa Hàng Gòn, Cần Giờ ở miền Nam, tương đương và gần gũi Sa Huỳnh, có thể coi là Tiền Óc Eo, góp phần chuẩn bị cho sự ra đời của văn hóa Óc Eo – Phù Nam ở châu thổ sông Cửu Long. Ở miền Trung, tiếp nối văn hóa Tiền Sa Huỳnh, có niên đại khoảng nửa đầu thiên kỷ I trước Công nguyên, văn hóa Sa Huỳnh thể hiện đậm đặc, dường như gắn liền với sự di cư từ biển trong một làn sóng mạnh mẽ hơn đến miền Trung Việt Nam, trong đó, một địa điểm tiêu biểu là Sa Huỳnh, thuộc tỉnh Quảng Ngãi, tiêu biểu cho một giai đoạn văn hóa mới phát triển, giai đoạn sơ kỳ đồ sắt, có niên đại từ khoảng giữa thiên kỷ I trước Công nguyên cho đến khoảng đầu Công nguyên.
Như thế, chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh nền văn hóa sắt sớm mang đậm dấu ấn văn hóa biển, Nam Đảo, có thể là tiền thân của người Chăm, dân nói tiếng Malayo – Polynesia, của văn hóa Chăm và của vương quốc Champa. Văn hóa Sa Huỳnh xuất hiện trước Champa về mặt niên đại văn hóa khảo cổ và về phạm vi lãnh thổ của nó. Tuy nhiên, văn hóa Sa Huỳnh có phải là tiền thân trực tiếp; hay nói cách khác, Chăm có phải là sự tiếp nối trực tiếp của Sa Huỳnh và trên cơ sở văn hóa Sa Huỳnh hay không thì từ trước đến nay không phải là không có sự nghi vấn khoa học. Đương nhiên đó cũng là mối bận tâm không nhỏ của các nhà khảo cổ, và của những người nghiên cứu lịch sử, văn hóa Champa. Từ giai đoạn văn hóa khảo cổ học được gọi là giai đoạn Tiền Sa Huỳnh, thể hiện trên các di tích: Bình Châu, Long Thạnh (cũng thuộc Quảng Ngãi) mà người ta có thể thấy, chỉ riêng ở Long Thạnh khá nhiều đồ gốm gồm chum, vò hình trứng, có nắp đậy; khá nhiều tô có chân, hoa văn trang trí là văn thừng, khắc vạch, các băng hình sóng, văn in băng răng sò, cọng rơm; các băng tô màu, được miết láng bóng, đẹp; một số được miết chì đen bóng. Đó là những nét đặc trưng cho gốm Tiền Sa Huỳnh lưu giữ trong gốm Sa Huỳnh.


