Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



LỜI GIỚI THIỆU
Bạn đọc thân mến!
Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước.
Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật – dù gây tranh cãi – tạo nên lịch sử đó.
Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay… và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.
Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha – một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” – đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.
Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di Sản.
Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một trong những sản phẩm đầu tiên của dự án này. Xin trân trọng giới thiệu.
CÔNG TY CP SÁCH ALPHA
Quy cách biên tập
Tủ sách “Góc nhìn sử Việt” ra đời với mục đích giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm hay, có giá trị, đồng thời góp phần bảo lưu gìn giữ những giá trị văn hóa của đất nước. Để thực hiện bộ sách này, chúng tôi tuân thủ một số quy cách sau:
- Bảo toàn văn phong, nội dung nguyên gốc, từ ngữ mang đậm văn hóa vùng miền trong tác phẩm (trừ khẩu âm).
- Biên tập đối chiếu trên bản gốc sưu tầm được và có ghi rõ tái bản trên bản năm nào.
- Chú thích từ ngữ cổ, từ Hán Việt.
- Tra cứu bổ sung thông tin: tiểu dẫn, tiểu sử, sự kiện, nhân vật, phụ lục (nếu cần thiết)…
- Sửa lỗi chính tả trong bản gốc.
- Giản lược gạch nối từ ghép, khôi phục từ Việt hóa tiếng nước ngoài khi có đủ tài liệu tra cứu tin cậy (trừ trường hợp từ ngữ đó đã dịch thành thuần Việt).
- Trường hợp thông tin lịch sử trong sách có sai lệch so với chính sử, chúng tôi sẽ chú thích hoặc đăng phụ lục ở cuối sách.
- Một số hình ảnh trong sách gốc bị mờ, chất lượng kém… chúng tôi sẽ đăng bổ sung – thay thế các hình ảnh có nội dung tương tự, chất lượng tốt (nếu có).
Mong đón nhận những ý kiến đóng góp của độc giả, hỗ trợ chúng tôi hoàn thiện tủ sách này.
Alpha Books
Lời nói đầu
Nếu Thanh Hóa là nơi xuất phát của 9 đời chúa Nguyễn thì Nam Bộ là nơi trung hưng mở ra thời kỳ 13 đời vua Nguyễn ở Thuận Hóa – Phú Xuân. Do đó, nghiên cứu triều Nguyễn và Huế xưa không thể không nghiên cứu lịch sử Nam Bộ và ngược lại, không thể nghiên cứu lịch sử Nam Bộ nếu không nghiên cứu triều Nguyễn.
Tôi là một nhà nghiên cứu không chuyên, vì ham thích lịch sử mà nghiên cứu chứ chưa hề được biên chế trong bất cứ một cơ quan nghiên cứu lịch sử văn hóa nào. Tôi biết lịch sử Nam Bộ qua các bộ sách của Quốc sử quan triều Nguyễn như Đại Nam Thực lục, Đại Nam Liệt truyện, Đại Nam Nhất Thống Chí, Gia Định Thành Thông Chí… các sách của người Pháp viết về Nam Bộ thời thuộc Pháp… Đặc biệt qua các thầy và các bạn người Nam Bộ của tôi. Đó là các thầy Vương Hồng Sển, Trần Văn Khê, các bạn Nguyễn Văn Y, Sơn Nam, Lý Việt Dũng, Bảo Hội. Địa bàn nghiên cứu của tôi chỉ quanh quẩn ở miền Trung. Việc đi điền dã ở Nam Bộ của tôi có tính bất chợt hay do yêu cầu của một địa phương nào đó mời mà thôi. Do đó, những gì tôi viết về Nam Bộ với triều Nguyễn và Huế xưa cũng có tính bất chợt nên thiếu hệ thống, thiếu toàn diện.
Từ sau năm về hưu (1998), tôi dự định sẽ điền dã Nam Bộ một thời gian, viết bổ sung những gì cần viết về Nam Bộ. Anh Lý Việt Dũng cùng ở trong Hội đồng Khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Quốc học với tôi hứa sẽ đưa tôi điền dã Nam Bộ với anh. Nhưng sau đó sức khỏe anh Lý không cho phép, lời hứa đó chỉ còn là một kỷ niệm. Tiếp đến anh Nguyễn Phúc Bảo Hội (cháu nội vua Thành Thái, quê mẹ ở Sa Đéc, Việt Kiều Mỹ) có ý giúp tôi theo anh đi thăm những nơi chúa Nguyễn Vương (Nguyễn Phúc Ánh, sau này là vua Gia Long) đã từng “nằm gai nếm mật” ở Nam Bộ.
Chuyến đi thực tế đầu tiên chúng tôi về vùng Nước Xoáy (Hồi Oa), một địa điểm thuộc huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) – nơi còn giữ được nhiều di tích liên quan đến Nguyễn Phúc Ánh. Tôi có bút ký “Về thăm Nước Xoáy (Hồi Oa)”. Không may sau đó ít lâu, anh Bảo Hội qua đời đột ngột. Chuyện điền dã những nơi chúa Nguyễn Vương từng qua của tôi phải tạm dừng.
Biết tôi tha thiết với Nam Bộ, kiến trúc sư Hồ Viết Vinh tổ chức cho tôi đi Phú Quốc, nhà văn lão thành Vũ Hạnh chở tôi đi Gò Công, điêu khắc gia Thụy Lam đón tôi đi An Giang… Sau mỗi lần đi thực tế tôi đều có một vài bài viết nhớ đời.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng khi nhìn lại thì vẫn thấy “sự nghiệp cầm bút” của tôi với Nam Bộ vẫn còn sơ sài so với thực tế lịch sử. Rất tiếc là quỹ thời gian còn lại không cho phép tôi phấn đấu cho đầy đủ được. Để đời tôi có một kỷ niệm với bạn đọc Nam Bộ, tôi sưu tập lại tất cả những bài tôi đã viết mà nay có thể sưu tập được in thành cuốn sách nhỏ này. Qua đây, cũng là một giải đáp dành cho những bạn đọc muốn sưu tập bài viết của tôi về Nam Bộ.
Nội dung các bài viết thuộc nhiều thể loại: Chuyện kể, bút ký, nghiên cứu, hỏi và đáp, thích hợp cho mọi tầng lớp từ người bình dân cho đến các nhà nghiên cứu.
Là người miền Trung viết chuyện lịch sử của Nam Bộ nên không tránh được sai sót trong ngôn ngữ, tên người, tên đất ở các địa phương Nam Bộ. Kính mong được các bậc trưởng thượng chỉ giáo những chỗ bất cập để có dịp tái bản được hoàn chỉnh hơn.
Xin đa tạ.
Nguyễn Đắc Xuân
Phần I. Chuyện kể
Phụ nữ Nam kỳ làm vợ các vua Nguyễn
Các chúa Nguyễn có công chinh phục và khai phá vùng đất Nam kỳ. Nhờ đó mà khi các chúa Nguyễn mất ngôi (1774), một người cháu của các chúa là Nguyễn Phúc Ánh đã sử dụng được nhân tài vật lực của Nam kỳ để khôi phục lại ngai vàng mở ra triều đại các vua Nguyễn sau này. Các quan lại giúp cho Nguyễn Phúc Ánh lập nên Đế chế Nguyễn là người Nam kỳ. Về sau một số con cái các quan người Nam kỳ làm dâu (phủ thiếp), làm rể (phò mã) các vua Nguyễn. Nhiều bà Phủ thiếp có chồng, có con, có cháu được nối ngôi vua, được phong Hoàng hậu, Hoàng Thái hậu, Thái hoàng Thái Hậu. Nhiều bà có đạo đức, có học vấn, có tuổi thọ cao nên ảnh hưởng lớn đến đời sống cung đình.
Vua Gia Long có 21 bà vợ còn biết tên, nhưng chỉ có 3 người được Nguyễn Phước Tộc Thế Phả ghi tiểu sử. Đó là các bà: Thừa Thiên Cao Hoàng hậu Tống Thị Lan, người Huế gốc Thanh Hóa; bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang người Huế; bà Đức Phi Lê Thị Ngọc Bình con vua Lê Hiển Tông, em cùng cha khác mẹ với Ngọc Hân Công chúa. Mười tám bà còn lại nhờ có con nên còn nhớ tên. Nhiều người khác không có con không ai nhớ tên. Có lẽ trong số những người làm vợ vua Gia Long có tên (không có tiểu sử) hoặc quên tên có nhiều người gốc Nam kỳ. Một người tài hoa và đam mê như vua Gia Long mà suốt 25 năm hoạt động ở Nam kỳ lẽ nào không có được một mối tình!
Vua Minh Mạng có hàng trăm bà vợ, nhưng Nguyễn Phước Tộc Thế Phả cũng chỉ ghi tên 43 bà (có con), trong số 43 bà đó cũng chỉ có một số ít bà được ghi tiểu sử. Trong số ít bà được chép tên đó có 4 người phụ nữ Nam kỳ. Đó là:
- Bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa (1791 – 1807), người huyện Bình An, Biên Hòa (nay là Thủ Đức TP. HCM), con gái Phúc Quốc Công Hồ Văn Bôi. Năm 15 tuổi, bà được vua Gia Long và Hoàng hậu Thuận Thiên tuyển chọn làm phủ thiếp cho Hoàng tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng). Bà Hoa có tính dịu dàng, thận trọng, một lòng hiếu kính. Bà sinh Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị) được 13 ngày thì mất giữa tuổi 17. Vì kỵ húy tên Hoa của bà mà các vua Nguyễn cấm thần dân không được dùng từ “hoa”. Những tên có từ hoa đều phải đổi như: Cầu Hoa thành cầu Bông, tuồng hát Phàn Lê Hoa thành Phàn Lê Huê hay Phàn Lê Ba, cửa Đông Hoa thành cửa Đông Ba, tỉnh Thanh Hoa thành tỉnh Thanh Hóa…
- Bà Thục tần Nguyễn Thị Bảo (1801 – 1851), người Gia Định con quan Tư không Nguyễn Khắc Thiệu, bà vào hầu vua Minh Mạng từ lúc còn ở Tiềm Để, sau bà được tấn phong Thục tần. Bà Nguyễn Thục tần sinh được 4 hoàng tử, nhưng chỉ nuôi được một người là Miên Thẩm (1818 – 1870) và 3 bà công chúa: Vĩnh Trinh (1824 – 1892), Trinh Thận (1826 – 1904) và Tĩnh Hòa (1830 – 1882). Về sau cả bốn người con của bà trở thành những nhà thơ nổi tiếng nhất ở cố đô Huế. Đó là các ông bà Tùng Thiện Vương, Qui Đức, Mai Am, và Huệ Phố. Ngoài thơ, bốn người cháu ngoại Nam kỳ này còn giỏi nhạc (trong phủ Tùng Thiện có lập một đội nhạc riêng).
- Bà Hòa tần Nguyễn Thị Khuê, húy Bích Chi, người Phúc Lộc, Gia Định, con gái Chưởng cơ Nguyễn Văn Thanh, trấn thủ tỉnh Quảng Yên. Bà sinh 10 người con: 4 hoàng tử và 6 hoàng nữ.
- Bà Cung nhân Nguyễn Thị Nhân, người thứ 38 trong danh sách 43 bà phi có tên của vua Minh Mạng, quê ở Gia Định, con gái của Chính đội Nguyễn Văn Châu. Bà là sinh mẫu của Hoàng tử Miên Ký (1838 – 1881). Miên Ký là một thân thần giỏi văn chương triều Tự Đức nên được phong là Cẩm Quốc công.
Vua Thiệu Trị có 3 bà vợ người Nam Bộ:
Hình 1. Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (1810 – 1901) – Ảnh tư liệu của Bảo Hiền
- Bà Thái Hoàng hậu Từ Dũ, tên thật là Phạm Thị Hằng, người Gò Công, con gái Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng. Thuở nhỏ bà thích đọc sách, thông kinh sử, tính rất hiếu hạnh. Thuận Thiên Cao Hoàng hậu nghe tiếng bà hiền đức cho tuyển vào cung hầu Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị). Vì đức hạnh và thuận thảo nên bà được vua rất sủng ái. Bà là người kính cẩn, nghiêm trang, cử chỉ hợp lễ. Những lúc có khánh hạ, triều bái trong cung lúc nào bà cũng giữ đúng lễ nghi, mọi người trông dung mạo bà đều phải kính nể. Thời Thiệu Trị, bà giữ chức Thượng nghi kiêm cai quản tất cả các bà trong Lục nghi. Bà là tấm gương cần kiệm, nhân hậu, có ảnh hưởng lớn đối với vua Tự Đức. Bà ra đời thời Gia Long (1810), được tuyển vào cung thời Minh Mạng, làm vợ vua Thiệu Trị, làm mẹ vua Tự Đức, và sống tuổi già trải qua các đời Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phước, Hàm Nghi, Đồng Khánh và bà mất (năm 1901) thời Thành Thái (1889 – 1907) (gần 10 đời vua). Bà đã chứng kiến những sự kiện lịch sử lớn của đất nước và trong Hoàng cung xảy ra suốt chiều dài thế kỷ XIX.
Người Nam kỳ, đặc biệt là người Gò Công hết sức trọng vọng bà, dù đường sá xa xôi khi có những của ngon vật lạ như mắm tôm, gỏi cá, trái sầu riêng, giáng châu (măng cụt), các giống lúa gạo thơm… họ đều đem ra dâng tiến cho bà. Người Huế có giống gạo thơm, biết làm mắm tôm, biết ăn gỏi cá từ ấy.
2. Bà Lệnh phi Nguyễn Thị Nhậm, người An Giang, con của Kinh môn Quận công Nguyễn Văn Nhân, bà được tiến cung cùng một lần với bà Phạm Thị Hằng con gái Phạm Đăng Hưng, nhờ tước của cha nên Lệnh phi có vị thứ trước bà Phạm Thị Hằng. Tiếc cho Lệnh phi chỉ sinh được một hoàng nữ là Nhàn Yên (An Thạch Công chúa) nên về sau bà có thứ bậc sau bà Hằng.
3. Bà Đức tần Nguyễn Thị Huyên, người gốc Thừa Thiên nhưng từ đời ông đã vào Gia Định, con gái Cai cơ Nguyễn Đức Xuyên. Bà là sinh mẫu của Hồng Diêu (1845 – 1875) hoàng tử thứ 25 của vua Thiệu Trị.
Vua Tự Đức có một bà vợ người Nam Bộ:
Đó là bà Học phi Nguyễn Thị Hương, người Vĩnh Long, con ai không rõ. Năm 1870 bà theo lệnh vua Tự Đức nhận công tử Ưng Thị mới 2 tuổi – con trai Hường Cai – làm dưỡng tử, sau này Ưng Thị được tôn lên làm vua tức vua Kiến Phước.
Tám ông vua sau Tự Đức (từ Dục Đức đến Khải Định) không vị nào có phi tần người Nam kỳ cả.
Riêng ông vua cuối cùng Bảo Đại đi học Pháp về cưới bà Hoàng hậu Nam Phương Nguyễn Hữu Thị Lan (1914 – 1963) con gái nhà hào phú Nguyễn Hữu Hào ở Gò Công. Bà sinh được 2 hoàng tử và 3 hoàng nữ: Bảo Long (1936), Phương Mai (1937), Phương Liên (1938), Phương Dung (1942), Bảo Thăng (1943). Sau khi vua Bảo Đại thoái vị (8/1945), bà sang Pháp sống với các con cho đến khi qua đời (1963).
Do ảnh hưởng của các bà hoàng có thế lực gốc Nam kỳ trong cung Nguyễn nên giọng nói sang trọng nhất của các bà là giọng Huế pha Nam Bộ. Ví dụ các bà nói: Ba ngày tết thèm ăn một tô canh cá phác lác. Chín từ đầu nói giọng cổ của Huế, nhưng hai từ phác lác cuối cùng nói giọng mũi của Nam kỳ. Nhờ ảnh hưởng của các bà mà nhiều món ngon vật lạ đất Nam Kỳ được nhập về Huế.


