Mục lục
ToggleBên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



TỰA
KÍNH DÂNG BA
Tập biên khảo thường đàm nầy để tưởng niệm những phút êm đềm đã qua:
Năm 1919, Ba đưa con lên Sài Gòn vô trường lớn.
Con bắt đầu nếm mùi cháo cá Chợ Cũ, hủ tíu Chợ Mới, xem hát thì Chùa Bà Chợ Lớn, nhai thịt bò kho thằng Lù, có năm cắc leo chuồng gà ngồi coi hát Tây, và cảnh không còn gặp nữa là: bữa bữa hai cha con thượng cao lâu ăn cơm xá xíu.
Năm 1927, Ba lên thăm, con mua bánh Catinat, lòng mừng dâng Ba món lạ.
Ba không dùng, hỏi con:
“Chữ Hiếu sao có đắt tiền?”
Năm nay 1960, đầu con bạc mà túi vẫn nhẹ, muốn mua bánh, Ba không lên: xe giằn, đường xa, hai con đò Cái Vồn và Mỹ Thuận vẫn có tiếng không lịch sự đối với hành khách “bát thập lão ông” như Ba vậy!
Những ký ức bấy lâu, con viết gởi về:
“Vương Trạch Nhựt, cháu hãy đọc lớn cho Nội nghe.”
Gia Định, đường Rừng Sác, số 5,
ngày 26 tháng 5 năm 1960
SẾN
TỰA
Bởi thấy tôi là người trong Nam, đầu pha hai thứ tóc, làm việc trong một cơ quan chuyên môn, thêm có tánh ham chơi cổ ngoạn, tom góp giấy má cũ đầy nhà, rồi tiếng đồn truyền ra: tôi sành sỏi chuyện xưa, tôi giỏi kê cứu điển cổ, báo hại phần đông văn hữu Bắc và Trung, ông nào quen một đôi lần, gặp nhau, hết năm ba câu lấy lệ, làm gì cũng hỏi vặn tôi về:
“Gốc tích hai chữ SÀI GÒN.”
Nói ư? – Chỉ bày cái dốt của mình ra!
Nín ư? – Người cười, càng thêm khó chịu!
Thôi thì còn một cách: ôm mớ tài liệu thâu thập bấy lâu – dù hay dù dở, dù chưa bằng bụng, mình biết lấy mình – bày hết, trình hết ra đây – mặc tình các vị xa gần tùy thích lựa chọn: “tóc tơ cặn kẽ đuôi đầu,” dù chẳng làm nên cái bánh ngon, cũng được tiếng là không xấu bụng!
Đối với các bạn nhỏ hiếu học, tôi xin nói lớn:
- Chỗ nào các bạn thấy mới, đừng sợ: ấy tôi đã cân nhắc kỹ càng, cứ tin cứ dùng: “coi vậy mà xài được!”
- Chỗ nào chưa “êm”, nhờ các bạn chỉ giùm, nếu tìm cách bổ khuyết càng tốt, gọi giúp lẫn nhau: già thua trẻ không xấu, mắc cở bậy, hay gì?
Đối với các học giả, các bậc lão thành, các vị cố cựu đất Sài Gòn, tôi xin “nghiêng tai nghe dạy, chắp tay đứng hầu.”
Học giả tiền bối trong Nam, cụ Trương Vĩnh Ký, trong Excursions et Reconnaissances (tạp chí về du lãm và thám hiểm), tập số 23, tháng Năm và Sáu năm 1885, có viết một bài khảo cứu Pháp văn Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs (ký ức lục khảo về lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận).
Bài này viết hai mươi lăm năm sau năm Nam Kỳ thất thủ (1859–1885).
Nay tôi dựa theo bài ấy làm nồng cốt mà kể tiếp, nhắc lại những sự biến đổi từ thuở đó cho đến ngày Sài Gòn trở về với dân Việt, ngót một trăm năm.
Bắt tay vào việc, cốt ý của tôi là muốn cống hiến ra đây mớ hiểu biết lụn vụn và mớ nghe thấy vặt vãnh về Sài Gòn.
Cũng nghĩ nếu mãi sụt sè, đến ngày xuống lỗ, chắc gì ôm theo được? (mà chừng đó ôm theo ích gì cho ai?)
Ở đây, tôi chú trọng nhiều nhứt là những đoạn sử buổi giao thời: Pháp – Nam – Chà – Chệc chung đụng, những chuyện “Tây đến Tây đi”, những việc chưa ai nói rõ ràng, may tôi được nghe tận tai, hoặc thấy tận mắt, nhiều đoạn do hiểu biết riêng, lắm đoạn nhờ các cố lão thuật lại.
Tôi không dám chắc đúng cả, nhưng “ăn trầu gẫm mà nghe”, bây giờ chưa nói còn đợi lúc nào?
Có nói có cãi, lần hồi mới phăng ra sự thật.
Tôi không quên cám ơn anh bạn thân Lê Ngọc Trụ, người nhau rún Chợ Lớn, đã dày công giúp tôi xây dựng tập nhỏ nầy.
Cũng như tôi không dám quên ơn tất cả các bạn xa gần đã góp sức cùng tôi, trong số, điển hình nhứt, có anh Mười Minh Tải Đặng Văn Ký, người đồng cảnh ngộ với cụ Trần Trọng Kim tân Gia Ba thuở nọ.
Nay anh Mười nằm khoảnh làm ẩn sĩ, ấp Đông Nhì, Gò Vấp.
Anh không làm gì hết, nhưng anh dày công ủng hộ tôi về mặt tinh thần, giúp thêm ý kiến, và đã đổ nhiều bọt oáp trong khi cùng tôi tìm hiểu địa điểm “Mả Ngụy” ngày nay nằm nơi đâu!
Còn một người nữa, bạn già với nhau, ông Hoàng Xuân Lợi, họa sĩ Viện Bảo Tàng.
Mấy ảnh chụp khéo, mấy bức địa đồ công phu không có, làm sao tập nhỏ này thành hình?
Bác Lợi, cảm tình chất chứa tận đáy lòng, tôi vội gói làm một gói “tri ân nồng hậu”, xin Bác vui nhận.
Xuân Mậu Tuất (1958)
Xuân Canh Tý (1960)
VƯƠNG HỒNG SỂN
PHẦN THỨ NHỨT
NHẮC LẠI CUỘC NAM TIẾN VĨ ĐẠI CỦA DÂN VIỆT
Nối dõi tổ tiên, trong cuộc Nam tiến vĩ đại — đến bây giờ còn phân phân bất nhứt: các học giả vẫn bàn cãi không thôi chung quanh hai tiếng “Sài” “Gòn”, chẳng biết từ đâu, bởi đâu mà có. Kẻ nói vầy, người nói khác, không ai chịu ai. Tranh luận mãi càng thêm rối trí, không bổ ích vào đâu.
Một điều an ủi chung cho hạng gàn như tôi là chính trong tập khảo cứu năm 1885, nhà bác học uyên thâm trong Nam, cụ Trương Vĩnh Ký, cũng tỏ ra bối rối như ai!
ĐỂ DỌN ĐƯỜNG TÌM HIỂU
Trước hết, tôi xin lược nhắc lại đôi điều trong lịch sử nước nhà, hầu có thể đặt câu chuyện Sài Gòn vào một khung thời gian nhất định.
Các tài liệu xưa chép rằng:
Năm 1658, chúa Nguyễn Phúc Tần sai tướng Nguyễn Phúc Yến đem quân vào đánh Chân Lạp, do vua Nặc Ông Chân (Ramadhipati) trị vì.
Quân Việt thắng, bắt được vua Chân, đem về Quảng Bình.
Sau đó, em vua là Nặc Ông Nộn xin thần phục chúa Nguyễn, dâng đất vùng Tầm Bôn và Lôi Lạp, nay là phần đất Biên Hòa – Gia Định.
Từ đó, dân Việt bắt đầu đến khai khẩn, lập làng, mở chợ, tạo nên bước đầu của cuộc Nam tiến.
Năm 1679, hai viên tướng Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, người Tàu, mang hơn ba ngàn quân cùng gia quyến xin tị nạn chúa Nguyễn, được cho vào khai khẩn Mỹ Tho, Biên Hòa, rồi sau lan đến Bến Nghé, Sài Gòn.
Nhờ vậy, vùng đất này sớm thành trung tâm buôn bán, người Việt, người Tàu, người Khmer cùng sinh sống.
Từ đó, đất Gia Định mở mang dần dần, đến năm 1753, gần như thuộc hoàn toàn về người Việt.
GHI NHẬN CỦA TRẦN TRỌNG KIM
Trích Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, trang 329–330:
“Đến đời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần), đất Chân Lạp chia làm hai phần: một phần phía Đông, kể từ sông Đồng Nai đến sông Sài Gòn, thuộc về nước ta; phần phía Tây, từ sông Cửu Long trở về, vẫn còn của Chân Lạp.
Khi ấy, người Việt vào lập nghiệp đông đảo, đất đai phì nhiêu, chợ búa mở mang, ghe thuyền tấp nập, tiếng Việt dần dần lấn tiếng Chân Lạp.
Từ đó mà thành đất Nam Kỳ ngày nay.


