Tải FREE sách Bụi Sao PDF có tiếng Việt - Tác Giả Neil Gaiman

Tải FREE sách Bụi Sao PDF có tiếng Việt – Tác Giả Neil Gaiman

Tải FREE sách Bụi Sao PDF có tiếng Việt – Tác Giả Neil Gaiman là một trong những Tiểu thuyết đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Bụi Sao PDF có tiếng Việt – Tác Giả Neil Gaiman đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

Chương 1

Trong chương này, chúng ta sẽ được biết về ngôi làng Bức Tường và những điều kỳ lạ xảy ra ở đó cứ chín năm một lần.

Ngày xửa ngày xưa, có một chàng thanh niên mong mỏi đạt được Mộng Ước Trái Tim.
Và mặc dù, giống như các khởi đầu khác, đây không phải toàn bộ nội dung cuốn tiểu thuyết (vì mọi câu chuyện về mọi chàng thanh niên đều đã hoặc sẽ có thể được bắt đầu theo một cách tương tự), có rất nhiều điều kỳ thú về chàng thanh niên này và những chuyện xảy ra với anh thật chẳng bình thường, nhưng đến cả anh cũng không bao giờ biết được trọn vẹn.

Câu chuyện bắt đầu, như nhiều câu chuyện khác đã bắt đầu, ở Bức Tường.

Thị trấn Bức Tường ngày hôm nay vẫn tọa lạc đúng y như nó vẫn từng tọa lạc suốt sáu trăm năm qua trên một dẻo đá hoa cương cao giữa một khoảnh rừng nhỏ. Các ngôi nhà ở Bức Tường đều cũ và vuông vắn, được xây bằng đá xám, với những mái ngói đá đen và các ống khói vươn cao; tận dụng đến từng phần diện tích trên đá, các ngôi nhà tựa sát vào nhau, nhà xây trước làm điểm tựa cho nhà xây sau, và đây đó lại có một bụi rậm hay một cái cây nhô ra từ một sườn nhà.

Có một con đường chạy từ Bức Tường, một đường mòn uốn khúc đột ngột đâm thẳng từ khu rừng ra, hai bên mép đường lổn nhổn đá tảng và đá dăm. Cách một đoạn tương đối xa về phía Nam, bên ngoài khu rừng, con đường mòn trở thành một con đường hẳn hoi, được rải nhựa đường; càng đi xa, đường càng nở rộng, lúc nào cũng ken đặc xe con và xe tải chạy như thoi đưa từ thành phố này sang thành phố khác. Cuối cùng, con đường ấy sẽ dẫn ta tới London, nhưng London nằm cách Bức Tường trọn một cuốc lái xe thâu đêm.

Cư dân ở Bức Tường có bản tính lầm lì, ít nói, thuộc hai kiểu người khác hẳn nhau:
một là dân Bức Tường gốc, cao lớn, chắc nịch và da dẻ nhợt nhạt, chẳng khác gì lớp đá hoa cương nơi thị trấn của họ được xây dựng lên;
hai là những người đã dần dần theo thời gian biến Bức Tường trở thành quê nhà của mình, cùng với con cháu đời sau của họ.

Bên dưới Bức Tường, về phía Tây, là khu rừng; phía Nam là một hồ nước yên ả xảo trá được hợp thành bởi những dòng nước chảy về phương Bắc từ dãy đồi đằng sau Bức Tường. Những cánh đồng trải dài trên đồi, nơi cừu thường được thả đi ăn cỏ. Phía Đông lại là vùng rừng.

Ngay phía Đông của Bức Tường, có một bức tường cao bằng đá xám — nguồn gốc cái tên của thị trấn này. Bức tường này đã lâu năm, được xây từ những tảng đá hoa cương đẽo thành khối vuông xù xì, xuất phát từ khu rừng và rồi lại lộn ngược trở về rừng.

Chỉ có duy nhất một khe hở trên tường: một lỗ hổng rộng chừng mét tám, nằm hơi chếch về phía Bắc ngôi làng.

Qua cái lỗ trên tường, có thể thấy một đồng cỏ rộng xanh ngắt; phía bên kia đồng cỏ có một dòng sông, và phía bên kia dòng sông là cây cối. Thỉnh thoảng, cũng có thể nhìn thấy những bóng dáng này hình thù nọ giữa đám cây cối ở xa xa — những hình thù to lớn cùng những bóng dáng kỳ dị và những thứ nhỏ bé chập chờn lóe sáng, lấp lánh rồi biến mất.

Mặc dù nơi này là địa điểm hoàn hảo để chăn thả gia súc, nhưng chưa từng có một dân làng nào cho vật nuôi lai vãng đến đồng cỏ phía bên kia bức tường. Họ cũng không hề trồng trọt gì trên đó.

Thay vào đó, từ hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn năm nay, họ vẫn cử người canh gác hai bên lỗ hổng trên bức tường, đồng thời cố hết sức để loại bỏ nó ra khỏi tâm trí.

Thậm chí đến tận ngày nay, hai người dân thị trấn vẫn đứng canh hai bên lỗ hổng, cả ngày lẫn đêm, đổi ca tám tiếng một lần. Họ cầm theo những cây gậy tày nặng trịch bằng gỗ. Họ trấn giữ lỗ hổng từ bên phía thị trấn.

Nhiệm vụ chủ yếu của họ là ngăn sao cho đám trẻ con thị trấn không chui qua lỗ hổng vào trong đồng cỏ và đi xa hơn nữa. Thỉnh thoảng, họ lại được cậy đến để cản bước một kẻ lang thang cô độc hay một trong số những vị khách ít ỏi ghé thăm thị trấn, không để họ đi qua cánh cổng ấy.

Với đám trẻ con, họ ngăn cản bằng cách đơn giản là trưng cây gậy tày ra. Còn với những kẻ lang thang và du khách thì họ sáng tạo hơn nhiều, chỉ dụng đến sức mạnh cơ bắp như phương án cuối cùng nếu những câu chuyện về cỏ mới trồng hay một con bò nguy hiểm đang bị thả rông không đủ sức thuyết phục.

Hiếm hoi lắm mới có một người biết rõ mình đang tìm kiếm gì khi đến Bức Tường, và những người này thỉnh thoảng cũng được phép cho đi qua. Họ có kiểu ánh mắt mà một khi đã nhìn vào thì không ai có thể nhầm lẫn về nó được.

Theo những gì người dân thị trấn được biết, trong suốt thế kỷ hai mươi, không có bất kỳ ai lén mang được gì từ bên này sang bên kia bức tường, và họ lấy làm hãnh diện về điều đó.

Người canh gác được nghỉ xả hơi chín năm một lần, vào Lễ Lao động, khi một hội chợ được tổ chức trên cánh đồng.


Các sự kiện được kể đến sau đây đã xảy ra từ nhiều năm về trước. Nữ hoàng Victoria đang ngự trên ngai vàng nước Anh, nhưng Người vẫn chưa trở thành góa phụ áo đen của Windsor: đôi má Người hây hây bầu bĩnh, chân bước rộn ràng, và Huân tước Melbourne thường xuyên có lý do để mà khiển trách, một cách nhẹ nhàng, nữ hoàng trẻ tuổi về những hành động bồng bột của ngài. Người cũng chưa lập gia đình, dẫu đang đắm chìm trong men say tình ái.

Ngài Charles Dickens đang trích đăng từng kỳ cuốn tiểu thuyết Oliver Twist của mình; ngài Draper vừa chụp bức ảnh đầu tiên về mặt trăng, đóng băng khuôn mặt nhợt nhạt của nàng trên tờ giấy mát lạnh; ngài Morse mới công bố cách truyền tin thông qua đường dây kim loại.

Nếu lúc này bạn nhắc đến phép thuật hay Xứ Tiên với bất kỳ ai trong số họ, thể nào họ cũng sẽ trao cho bạn một nụ cười mỉm khinh thường — có lẽ chỉ trừ ngài Dickens, hồi bấy giờ còn đang là một chàng thanh niên, và không có râu. Chàng trai ấy hẳn sẽ nhìn bạn bằng ánh mắt đăm chiêu.

Mùa xuân năm đó, mọi người đang lục tục kéo đến quần đảo Anh. Họ đến đơn lẻ từng người, họ đến theo đôi theo cặp, và họ đổ bộ vào Dover, London hay Liverpool: những người đàn ông và đàn bà với nước da trắng nhợt như tờ giấy, nước da đen như đá núi lửa hay nước da màu quế, nói bằng vô số ngôn ngữ khác nhau. Họ kéo đến trong suốt tháng Tư bằng tàu hơi nước, bằng ngựa, bằng xe moóc hay xe ngựa, và trong số họ, có rất nhiều người đi bộ.

Hồi đó, Dunstan Thorn mười tám tuổi, và anh không phải típ người lãng mạn.
Anh có mái tóc màu nâu sẫm, mắt màu nâu sẫm, và những đốm tàn nhang màu nâu sẫm. Anh có vóc người tầm thước, không thuộc kiểu hoạt ngôn. Trên môi anh luôn thường trực một nụ cười tươi tắn khiến khuôn mặt anh sáng bừng từ trong ra ngoài, và những khi mơ mộng vẩn vơ trên cánh đồng của cha mình, anh lại tưởng tượng đến tương lai được rời khỏi ngôi làng Bức Tường — với toàn bộ sức mê hoặc không thể đoán trước được của nó — để rồi lên đường tới London, hoặc Edinburgh, hoặc Dublin, hoặc một thành phố lớn nào đó nơi chẳng có bất kỳ thứ gì bị lệ thuộc vào chiều gió thổi.

Anh làm việc trên trang trại của cha mình và chẳng có tài sản gì ngoài một mái nhà tranh nhỏ bé…