Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!



Truyện cổ tích như một tài sản kế thừa qua các thế hệ Ở Việt Nam, những câu chuyện cổ tích đã nhen nhóm sâu sắc vào tâm thức của mỗi người và trở thành một trong những bài học đầu đời quen thuộc mà các bậc phụ huynh và thầy cô giáo dành cho trẻ nhỏ. Đó là lý do vì sao chúng ta có thể kể lại vanh vách từng câu chuyện cổ tích dài hoặc nhớ đại ý của mỗi truyện ngay cả khi đã qua thời tuổi thơ. Hầu như thể loại này đều có một mô típ giống nhau, bởi thế, tôi muốn đặt ra cho bạn hai câu hỏi: “Trong truyện cổ tích, bạn thích những nhân vật nào? Họ có chung đặc điểm gì?” Tôi dám chắc phần đa câu trả lời của mọi người sẽ là: “Tôi thích những nhân vật chính diện, tốt bụng.” Trong truyện Tấm Cám, bạn sẽ thích Tấm và ghét Cám, trong truyện Thạch Sanh, bạn sẽ ghét Lý Thông và cảm thương, ngưỡng mộ Thạch Sanh. Ban đầu, nhân vật chính diện thường là “người nghèo” tốt bụng, gánh chịu nhiều bất công bởi sự đàn áp, phân biệt đối xử của người giàu.
Sau đó, họ bỗng nhiên thoát “nghèo” nhờ một cú hích đổi đời dựa trên sự may mắn, tình cờ chứ không phải đi từ năng lực thật sự của họ. Khi “người nghèo” như họ phất lên, kẻ giàu trong truyện cổ tích thường bị gán vào tội chết hoặc gặp báo ứng vì tội ác họ gây ra. Truyện cổ tích gieo vào tâm trí con người quan điểm sống: “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.” Truyện cổ tích dạy cho con người thái độ sống lạc quan và niềm tin tưởng mãnh liệt vào tương lai. Họ hi vọng nó sẽ thay đổi nhờ vào sự may mắn, miễn là bản thân họ sống hiền lành, tốt bụng. Ngay từ khi trẻ bước vào mẫu giáo, các bậc cha mẹ vẫn không ngừng kể những câu chuyện cổ tích cho con cái mình nghe.
Từ Sọ Dừa, Tấm Cám đến Thạch Sanh, Cây khế… Vì sao truyện cổ tích lại được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác? Không có một câu trả lời nào gãy gọn nhất cho vấn đề này, chúng ta chỉ biết nó đã trở thành truyền thống trong xã hội Việt. Người lớn kể chuyện cổ tích vì đơn giản đó là bài học sinh động và quan trọng giúp trẻ nhỏ phân biệt người tốt kẻ xấu, biết yêu ghét và học cách sống lạc quan. Không ai có thể bác bỏ giá trị thiết thực của nguồn tri thức quý giá này và tôi cũng như vậy … Đằng sau truyện cổ tích là một đời thực hoàn toàn khác Truyện cổ tích chỉ đơn thuần là thế giới trong trí tưởng tượng của loài người, với những nhân vật siêu nhiên như Bụt, Thánh, Thần, Bà Tiên, Ông Tiên,… mà trong đời sống thực không bao giờ có.
Một cô bé bán diêm trong đời sống thực lâm vào cảnh bi thương vì đói rét sẽ không có một phép màu nào xuất hiện giúp đỡ cô ngoài bàn tay tương trợ của những người xung quanh. Cũng như thế, Tấm của thế kỉ XXI sẽ không thể trở thành hoàng hậu vì làm gì có Bụt trong thế giới thực này? Bởi thế, đừng mang những ảo tưởng truyện cổ tích để gắn nó vào bức tranh cuộc sống hiện thực. Truyện cổ tích chỉ đơn thuần đóng vai trò như một bài học đạo đức, gột sạch tâm hồn trẻ thơ, để chúng không vướng bận những xô bồ của thời thế quá sớm.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng người lớn nên gieo vào tâm trí trẻ quan niệm giàu nghèo là dựa vào số phận. Không có ai tự dưng giàu lên và ngẫu nhiên nghèo đi: Cuộc sống thực tế không bao giờ là câu chuyện cổ tích với kết thúc có hậu kia. Không phải câu chuyện cô gái tốt bụng xứ đẹp vớ được hoàng tử, không phải câu chuyện nàng công chúa ngủ trong rừng và tìm thấy bạch mã hoàng tử của cuộc đời mình. Thế giới thực hoàn toàn khác.
Đó là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ. Truyện cổ tích thường gồm hai tuyến nhân vật: “Người nghèo” lương thiện và kẻ xấu giàu sang. Trong khi “người nghèo” được mô tả chi li từ ngoại hình xinh đẹp đến phẩm chất tốt bụng thì người giàu gắn liền với sự châm biếm: đê tiện, độc ác, cậy thế cậy quyền, ngu ngốc, giàu xổi,… Vào thời điểm ấy, giai tầng cụ thể trong xã hội của họ thường được gọi là: Phú ông, phú hộ, bá hộ, lão nhà giàu,… Đọc xong câu chuyện cổ tích nào, càng thương “người nghèo” bao nhiêu thì ta đâm ra ghét kẻ giàu bấy nhiêu. Khi người nghèo lấy lại công bằng, trở nên giàu có và hạnh phúc ở đoạn kết, ta lại thêm mãn nguyện khi thấy kẻ giàu bị đày xuống hố sâu, hoặc biến thành quái quỷ và những thứ gàn dở, xấu xa khác.
Bởi vậy, từ khi còn nhỏ, chúng ta mang tâm lí vô thức ghét những kẻ nhà giàu, bởi truyện cổ tích đã dạy cho ta bài học về lòng lương thiện của những “người nghèo” chứ ít khi đả động đến một anh nhà giàu lương thiện và chiến thắng anh chàng “nghèo khó”, bần hàn. Hơn nữa, truyện cổ tích cũng chỉ ra rằng: Kẻ trọc phú, nhân vật phản diện trong trang giấy kia đều ngu ngốc và kết cục cũng gặp tai họa. Và rồi tôi tự vấn lòng mình, “cuối cùng những nhân vật chính diện đều giàu có, vậy họ có trở nên độc ác, hợm hĩnh và biến thành những lão bá hộ độc ác, tham lam hay không?” Tôi tin là không, bởi những nhân vật đó đều là những người tốt bụng, giàu lòng yêu thương và chăm chỉ.
Bỗng nhiên, truyện cổ tích đến đây gặp mâu thuẫn. Rõ ràng không phải người giàu nào cũng xấu xa, vẫn có rất nhiều người giàu tài giỏi và tốt bụng. Thế giới thực là như vậy! Mỗi việc xảy ra trong đời đều có nguyên do của nó và tương tự như vậy, những người giàu không tự dưng giàu lên và hưởng cuộc đời phú quý. Cũng không ai đem đến cho họ một kho bạc hay thậm chí một căn nhà to, cửa rộng. Mọi phép màu trong truyện cổ tích chỉ nằm trong trí tưởng tượng và ảo tưởng của chúng ta, chứ chúng chưa bao giờ bước ra ngoài thực tế để hô biến “người nghèo” lương thiện trở thành kẻ giàu có. Không dừng lại ở đó, người giàu đâu ngu ngốc, nếu ngu ngốc thì họ đã không kiếm ra ngần ấy tiền và sống một cuộc đời vương giả như thế.
Vậy mấu chốt của vấn đề là đâu? Vì sao có những người thoát nghèo rồi trở thành triệu phú, tỷ phú trong khi đó có những “người nghèo” lại cứ mãi “nghèo” đi, thậm chí họ biến cuộc đời mình rơi vào cảnh “nghèo gia truyền”? Đáp án chỉ có thể là họ tự mình gây dựng cơ nghiệp, họ không phó mặc số phận hoặc chờ đợi Bụt hiện lên và ban cho ba điều ước, cuộc sống nay khác truyện cổ tích ở hai chữ “thực tế”.


