Tải FREE sách Bí Mật Thành Paris Tập 3 PDF có tiếng Việt

Tải FREE sách Bí Mật Thành Paris Tập 3 PDF có tiếng Việt

Tải FREE sách Bí Mật Thành Paris Tập 3 PDF có tiếng Việt là một trong những Tiểu thuyết đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Bí Mật Thành Paris Tập 3 PDF có tiếng Việt đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

Bên dưới đây mình có spoil trước 1 phần nội dung  của cuốn sách với mục tiêu là để bạn tham khảo và tìm hiểu trước về nội dung của cuốn sách. Để xem được toàn bộ nội dung của cuốn sách này thì bạn hãy nhấn vào nút “Tải sách PDF ngay” ở bên trên để tải được cuốn sách bản full có tiếng Việt hoàn toàn MIỄN PHÍ nhé!

CHƯƠNG I NHỮNG LỜI KHUYÊN

Rodolphe và Clémence trò chuyện trong khi ông d’Harville đọc lại hai lần lá thư của Sarah.
Nét mặt Hầu tước vẫn bình thản, bàn tay thoáng run run xúc động. Sau một phút chần chừ, ông ta bỏ lá thư vào túi áo gi-lê.

– “Chỉ sợ Điện hạ cho là thiếu lịch sự,” – ông ta mỉm cười nói với Rodolphe – “tôi xin phép Điện hạ được đi trả lời bức thư này. Nó quan trọng hơn tôi tưởng lúc ban đầu.”
– “Chiều nay tôi có gặp được ông không?”
– “Thưa Điện hạ, có lẽ tôi không được hân hạnh đó. Mong Điện hạ vui lòng thứ lỗi.”
– “Người sao mà khó mời thế!” – Rodolphe vui vẻ nói. – “Phu nhân thử giữ ông nhà xem có được không?”
– “Tôi chẳng dám làm điều mà Đức ông không làm được.”
– “Nghiêm chỉnh đấy, ông bạn Albert thân mến ạ! Ông cố gắng quay lại với chúng tôi, sau khi viết xong thư trả lời. Nếu không thì cũng hứa dành cho tôi một buổi sáng nào đó. Tôi có bao nhiêu điều muốn nói với ông.”
– “Tôi đội ơn Điện hạ!” – Hầu tước kính cẩn cúi chào rút lui, chỉ còn lại Clémence với Hoàng thân.

– “Ông nhà hình như có điều gì bận tâm,” – Rodolphe nói với bà Hầu tước – “nụ cười của ông ấy có vẻ gượng gạo.”
– “Điện hạ đến, ông nhà tôi đang có điều xúc động mạnh, không giấu nổi Điện hạ.”
– “Có lẽ tôi đến không đúng lúc?”
– “Không, thưa Điện hạ! Điện hạ còn tránh được cho tôi đoạn kết của một câu chuyện nặng nề.”
– “Thế nào?”
– “Tôi đã nói với ông nhà tôi cách xử sự mới mà tôi đã quyết định, hứa sẽ nâng đỡ và an ủi ông ấy.”
– “Chắc ông ấy sung sướng lắm!”
– “Lúc đầu cả hai chúng tôi đều vui vẻ. Nước mắt, niềm vui của ông ấy làm tôi xúc động như chưa từng có. Trước kia tôi tưởng được trả thù bằng một lời trách móc mỉa mai cay độc. Buồn thay! Tôi chỉ càng thấy cay đắng hơn. Còn như mới rồi thì khác hoàn toàn! Tôi hỏi chồng tôi có đi đâu không, ông ấy buồn rầu nói sẽ ở nhà một mình như thường lệ. Khi tôi nói sẽ ở nhà với ông ấy, thưa Điện hạ, ông ấy rất ngạc nhiên! Nét mặt đang u sầu bỗng rạng rỡ. Điện hạ nói đúng lắm! Không có gì đáng nâng niu hơn những hạnh phúc bất chợt ấy!”
– “Nhưng sao những tình cảm tốt đẹp của phu nhân lại dẫn đến câu chuyện nặng nề như bà nói với tôi hồi nãy?”
– “Thưa Điện hạ,” – Clémence đỏ mặt – “tiếp theo những hy vọng mà tôi đã làm nảy sinh vì có thể thực hiện được, ông ấy lại muốn nuôi những hy vọng đằm thắm hơn mà tôi không muốn nhen lên bởi không thể làm thỏa mãn được.”
– “Tôi hiểu rồi. Ông ấy yêu bà tha thiết đến thế!”
– “Càng cảm động vì tấm lòng của ông ấy, tôi càng cảm thấy giá lạnh, hãi hùng khi lời nói của ông ấy trở nên nồng nhiệt. Trong phút mê say, ông ấy đặt môi lên bàn tay tôi. Tôi thấy lạnh buốt, không giấu được sự hãi hùng. Tôi đã có một cử chỉ phũ phàng để ông ấy thấy sự xa cách không thể lấp được trước tình yêu ông ấy có với tôi. Tôi rất tiếc đã có cử chỉ ấy, để ông ấy dứt khoát thấy rằng dù tôi có trở lại thì cũng chỉ còn một tình bạn tận tâm mà thôi.”
– “Tôi phàn nàn cho ông ấy nhưng không trách được phu nhân. Có những điều nhạy cảm có thể nói là thiêng liêng. Albert đáng thương thật, con người tốt đến thế! Thẳng thắn, hào hiệp, nhiệt tình. Mong phu nhân biết rằng tôi đã bận tâm từ lâu vì nỗi buồn giày xé tâm hồn ông ấy, không rõ tại sao. Hãy để thời gian cho lý trí làm việc. Dần dần ông ấy sẽ thấy được cái giá của tình thương của phu nhân và ông ấy sẽ cam lòng như đã chịu đựng trước đây mà không được phu nhân an ủi.”
– “Và tôi xin thề với ngài là ông ấy sẽ không bao giờ thiếu lời an ủi đó.”

– “Thôi bây giờ hãy nghĩ đến những hoạn nạn khác. Tôi đã hứa với phu nhân một việc từ thiện, hấp dẫn như một thiên tiểu thuyết. Tôi đến đây để thực hiện lời hứa đó.”
– “Có rồi sao, thưa Điện hạ? Thế thì may quá!”
– “Tôi có linh cảm khi thuê căn phòng trên phố Temple mà tôi đã nói với phu nhân. Phu nhân không tưởng tượng được tôi đã thấy ở đó có bao nhiêu điều kỳ lạ, đặc sắc đâu! Những người được phu nhân che chở, đang sống trong tầng sát mái ấy, đã được hưởng phúc nhờ gặp phu nhân, họ còn nhiều nỗi gian truân phải vượt qua. Nhưng tôi không muốn làm phu nhân buồn. Một ngày kia phu nhân sẽ biết có bao nhiêu tai họa khủng khiếp trút xuống một gia đình.”
– “Họ phải biết ơn Điện hạ bao nhiêu!”
– “Không, họ chỉ ca ngợi phu nhân thôi!”
– “Điện hạ đã nhân danh tôi cứu họ?”
– “Để họ nhận ơn huệ nhẹ nhàng hơn. Vả lại, tôi chỉ thực hiện lời hứa với phu nhân.”
– “Không, tôi sẽ làm cho họ khỏi nhầm, nói cho họ biết họ cần đội ơn Điện hạ.”
– “Đừng làm thế! Phu nhân biết tôi có một căn phòng ở đấy. Coi chừng những việc làm hèn hạ, giấu mặt của những kẻ thù của phu nhân hoặc của tôi. Vả lại nhà Morel đã bớt khó khăn. Hãy nghĩ đến việc của chúng ta. Có hai mẹ con xưa kia sống sung túc nhưng nay đang trong cảnh khốn cùng, nạn nhân của một tước đoạt xấu xa.”
– “Ôi, những người khốn khổ! Nhưng họ ở đâu, thưa Điện hạ?”
– “Tôi không rõ.”
– “Nhưng sao ngài biết tình cảnh khốn đốn của họ?”
– “Hôm qua tôi đến chợ Temple. Phu nhân có biết chợ ấy không?”
– “Thưa, không.”
– “Đó là nơi bán tạp hóa rất ngộ nghĩnh. Tôi đi mua một vài thứ lặt vặt với cô láng giềng tầng bốn.”
– “Láng giềng của Điện hạ?”
– “Thì tôi có phòng ở phố Temple mà.”
– “Tôi quên mất, thưa Điện hạ.”
– “Cô láng giềng ấy là một cô thợ bé nhỏ, thật tuyệt vời. Cô ấy tên là Rigolette. Cô ấy cười suốt ngày và chưa có người yêu.”
– “Đứng đắn quá, đối với một cô thợ trẻ!”
– “Không phải chỉ là đức hạnh mà như cô ấy nói, là không có thì giờ để yêu. Vì yêu thì mất nhiều thì giờ, cô ấy cần phải làm việc mười hai đến mười lăm tiếng mỗi ngày để kiếm được hai mươi lăm xu mà sống!”
– “Sống với ít ỏi thế thôi sao?”
– “Còn sao nữa. Cô ấy còn có một thứ xa xỉ là hai con chim, chúng còn ăn nhiều hơn cô ấy. Căn phòng bé bé của cô ấy khá sạch sẽ, xinh xắn, cách ăn mặc thì khá đỏm.”
– “Sống với hai mươi lăm xu mỗi ngày. Thật kỳ lạ!”
– “Phải cực kỳ ngăn nắp, chăm chỉ, tiết kiệm và đầu óc thực tiễn. Vì vậy tôi giới thiệu cô ấy với phu nhân. Cô ấy là một cô thợ khâu đầm rất khéo tay. Nhất định phu nhân sẽ vừa ý với những chiếc váy cô ấy may.”
– “Ngay ngày mai tôi sẽ đem việc cho cô ấy. Tội nghiệp, sống bằng số tiền ít ỏi như thế. Có thể nói tầng lớp giàu có chúng ta không thể biết đến một số tiền nhỏ như vậy. Một ý muốn nhỏ nhặt, bất thường của chúng ta cũng phải đáng hơn một trăm lần số tiền ấy!”
– “Thôi được, phu nhân đã quan tâm đến cô gái mà tôi đang bảo trợ. Giờ xin trở lại câu chuyện của chúng ta. Vậy là tôi đến chợ Temple với cô Rigolette, mua vài thứ cho mấy người ở tầng áp mái. Khi lục một cái bàn giấy cũ được bày bán, tôi tình cờ thấy bản nháp một lá thư của một phụ nữ viết cho ai đó về việc hai mẹ con họ bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng do sự phản bội của một tên chưởng khế.

Tôi hỏi người bán hàng cái bàn từ đâu đến, được bà chủ cho biết bàn này nằm trong số đồ đạc ít ỏi của một người phụ nữ còn trẻ, đem bán bởi đã cạn nguồn sinh sống. Bà chủ ấy nói với tôi, người đàn bà ấy và cô con gái có vẻ trước đây là những người giàu có và hiện đang cam chịu sống cảnh khốn cùng.”
– “Thưa Điện hạ, ngài không biết họ ở đâu?”
– “Khốn thay, cho đến giờ tôi vẫn không biết… Tôi đã lệnh cho ông de Graün tìm cách phát hiện những người này, nếu cần, phải đến Sở Cảnh sát. Có thể trong cảnh khốn cùng, hai mẹ con họ đã tìm chỗ trú tại quán trọ tồi tàn nào đó. Nếu vậy thì chúng ta có hy vọng, bởi các ông chủ quán cứ tối đến lại ghi tên những khách lạ đã đến ban ngày.”
– “Tình huống kỳ cục thay!” – phu nhân d’Harville ngạc nhiên – “Thật lạ lùng!”
– “Chưa hết! Trên góc tờ giấy nháp có dòng chữ: ‘Viết cho bà de Lucenay’.”
– “May thật! Có thể chúng ta biết được đôi điều nhờ bà Công tước.” – phu nhân kêu lên. Rồi phu nhân lại thở dài. – “Không biết tên người đàn bà này thì biết hỏi bà de Lucenay thế nào?”
– “Phải hỏi xem bà ấy có biết một bà quả phụ nào còn trẻ, khuôn mặt thanh tú và có cô con gái chừng mười sáu hoặc mười bảy tuổi, tên là Claire không. Tôi còn nhớ được tên.”
– “Tên của con gái tôi! Thêm một lý do để phải chú ý đến những người khốn khổ này.”
– “Tôi quên nói là người em trai của bà quả phụ này đã tự tử cách đây vài tháng.”
– “Nếu bà de Lucenay biết gia đình này,” – bà d’Harville suy nghĩ – “một số chi tiết như vậy đủ để định hướng. Cái chết bi thảm của con người khốn khổ này chắc sẽ làm bà Công tước xúc động mạnh. Trời! Tôi nóng lòng muốn đi tìm bà. Chiều nay tôi sẽ viết cho bà vài dòng để chắc chắn được bà gặp sáng mai. Những người phụ nữ kia là ai nhỉ? Theo những điều Điện hạ biết, họ thuộc tầng lớp thượng lưu, bị đẩy vào cảnh khốn cùng như thế thì nỗi cơ cực còn bi thảm hơn nhiều!”
– “Và như vậy là do vụ cướp đoạt của một tên chưởng khế, một tên vô lại khốn kiếp mà tôi còn biết về một số tội ác khác của hắn. Một tên Jacques Ferrand nào đó.”
– “Ông chưởng khế của chồng tôi!” – Clémence kêu lên. – “Ông chưởng khế của mẹ kế tôi! Thưa Điện hạ, ngài nhầm, người ta vẫn coi ông ấy là người lương thiện nhất đời.”
– “Tôi có những bằng chứng ngược lại. Nhưng phu nhân đừng nói với ai về những điều tôi ngờ vực, đúng hơn là những điều tôi nắm chắc về kẻ khốn nạn này. Nó xảo quyệt bao nhiêu thì lại gian ác bấy nhiêu, và để lột mặt nạ hắn, tôi cần hắn tin rằng hắn chưa bị trừng phạt. Vâng, chính hắn đã tước đoạt tài sản của những người khốn khổ này, bằng cách chối không nhận một số tiền ký quỹ mà chắc hẳn em trai bà quả phụ đã gửi.”
– “Và số tiền ấy?”
– “Là tất cả vốn liếng của họ.”
– “Những tội ác thật ghê gớm!”
– “Những tội ác,” – Rodolphe nói lớn – “không gì bào chữa được! Không phải do khốn khó, cũng không phải ngu si. Nhiều khi cái đói đẩy đến trộm cắp, hận thù dẫn đến giết chóc. Nhưng tên chưởng khế này đã giàu sụ, được xã hội phong cho vẻ đạo mạo thánh thiện, làm mọi người tin tưởng. Hắn đi đến tội ác bởi lòng tham lạnh lùng. Một kẻ sát nhân giết người một lần thật nhanh bằng dao. Còn hắn, hắn giết người dần dần, hành hạ họ trong cảnh bần cùng và tuyệt vọng.

Đối với kẻ như Ferrand, tài sản của một em bé mồ côi, đồng tiền của người nghèo khó dành dụm, chẳng có gì thiêng liêng. Anh gửi cho hắn vàng, vàng ấy cám dỗ hắn, hắn cướp lấy. Từ chỗ giàu sang hạnh phúc, tham vọng của hắn biến anh thành kẻ hành khất! Phải chịu bao thiếu thốn, lao động cực nhọc, anh mới dành được miếng ăn, mái nhà tuổi già. Hắn đoạt mất tất cả. Chưa hết — hậu quả hãi hùng ấy: để mặc bà quả phụ chết vì tuyệt vọng, cô con gái trẻ không nơi nương tựa, không nguồn sống, quen sung túc, không biết cách lao động — nay sẽ đứng giữa ô nhục và đói khát. Họ sẽ lầm đường, ngã gục, sa đọa. Do sự tước đoạt ấy, Jacques Ferrand là nguyên nhân dẫn đến cái chết của người mẹ, đến việc làm điếm của người con! Hắn tiêu diệt thể xác người này, linh hồn kẻ kia, và xin nói lại: không phải giết ngay như những kẻ giết người khác, mà dần dà, rất độc ác.”}