


**LỜI NÓI ĐẦU** Theo yêu cầu của một số bạn đọc, nhóm biên tập gồm những đồng nghiệp và học trò của giáo sư Cao Xuân Hạo, đã sưu tập một số bài vở đang rải rác trên báo chí từ 1982 đến 2001, giúp ông chọn lọc, hiệu đính, biên tập, sắp xếp lại những bài ấy thành một tập tạp văn chia một cách ước định thành ba phần: I. Tiếng Việt II. Văn Việt III. Người Việt và văn hoá Việt Tập sách này phản ánh những ý kiến của ông về một số vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, văn hoá và văn hoá dân tộc. Là một nhà Việt ngữ học lão thành, thường nhiên trung tâm chủ ý của ông là những vấn đề của tiếng Việt, nhưng ngoài ra ông cũng quan tâm đến những vấn đề có liên quan xa gần với ngôn ngữ như văn học và văn hoá. Những ý kiến mà ông phát biểu trên báo chí thường có một nét đặc trưng: nó rất ít khi trung hoà, cho nên thường gây nên trong lòng người đọc một phản ứng hoặc rất tích cực, hoặc rất tiêu cực. Người thì tán thưởng, người thì phản đối, chứ không mấy ai bình thản bỏ qua. Sở dĩ như vậy chắc cũng vì bài vở của ông rất ít khi thoái theo cái dòng chảy quen thuộc của số đông, những ý kiến được công luận tán đồng. Khác nhiều lời lẽ của ông nghe có phần chương tai, tuy không bao giờ thô lỗ. Chẳng tôi, những người làm việc gần ông, cũng không có một cảm giác khác. Nhưng chúng tôi đã quen với giọng văn của ông hơn các độc giả khác, và chúng tôi biết rằng những ý nghĩ của ông thường là kết quả của một quá trình khảo sát và suy ngẫm lâu dài, chứ không phải là của một cơn ngẫu hứng. Hầu hết người có cảm giác là ông “cực đoan”. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy ngược lại. Ông hầu như bao giờ cũng có chừng mực, thậm chí chí chừng mực ấy còn chính xác đến mức chí lí, và hầu hết những người thấy ông cực đoan đều là những người đã quá quen với những định kiến cực đoan ở phía ngược lại. Ngay nay hình như đã bắt đầu có nhiều độc giả tuy văn hoán rất trí với những ý kiến của số đông nhưng vẫn sẵn sàng đón nhận những ý kiến mới mẻ và lại để tham khảo và đánh giá thử. Chúng tôi cho xuất bản tập sách nhỏ này với niềm hy vọng cung cấp những ý kiến có thể coi là “bạo phổ” nhưng may ra lại cũng có thể gợi cho bạn đọc những hướng suy nghĩ mới. Hầu hết những văn bản được sưu tập trong cuốn sách này đều là những bài báo không có tính chất chuyên môn, không đòi hỏi một vốn tri thức chuyên biệt. Tác giả không có tham vọng trình bày những luận cứ thực sự khoa học. Nhưng bạn đọc nào thấy cần tìm hiểu những luận cứ như vậy có thể tìm đọc những xuất bản phẩm như Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng (NXB Khoa học Xã hội 1991), Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa (NXB Giáo dục 1998), Âm vị học và Tuyển tính (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002) hay các tạp chí chuyên ngành như Ngôn ngữ (Viện Ngôn ngữ học), Ngôn ngữ & Đời sống (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam). Hoàng Dũng, Nguyễn Đức Dương, Bùi Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Ly Kha, Hoàng Xuân Tầm — **MỤC LỤC** **Phần I: Tiếng Việt** 1. Manh bao tập 2. Linh hồn tiếng Việt 3. Những thực và kỹ năng về tiếng Việt cần được dạy và học ở nhà trường phổ thông 4. “Hán Việt” và “chuẩn Việt” 5. Tiếng Việt là tiếng Mẫu Lạ? 6. Chữ Tây và chữ Hán, thử chữ nào hơn? 7. Máy nhận xét về chữ Quốc ngữ 8. Về cách viết và cách đọc tên tiếng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt 9. Trương Vĩnh Ký và ngữ pháp tiếng Việt 10. Nhân đọc lại một cuốn sách cũ 11. Về lịch sử của khái niệm “chữ ngờ” 12. Ơi bao giờ và bao giờ đi 13. Về một cách dịch không đúng 14. Anh trai, chị gái có phải là trùng ngữ không? 15. Tìm và kiếm 16. Lò là một vật 17. “Ông”, “bà”, “bền” 18. Văn vần (v.v.) và châm lửng (…) 19. Nhân câu đối cây không được thịt 20. Một sự phận biệt bị đánh mất (đó với tuy và mộc đầu) 21. Đôi điều về ngôn ngữ bình luận bông đà **Phần II: Văn Việt** 1. Nghĩa của mấy ngài trong câu thơ Rầu hâm, hàm én, mây ngài 2. Trầm năm trong cõi người ta nghĩa là gì? 3. Về cách hiểu một ý thơ của Nazim Hikmet 4. Khi biên tập viên là một người thầy 5. Suy nghĩ và ước mong của một người đọc 6. Sóng Việt là gì? Vai trò cứ nhớ cho một vấn đề tồn tại Phần III: Người Việt và văn hoá Việt 1. Ngôn ngữ học có thể đóng góp gì vào việc tìm hiểu tư duy và văn hoá Việt Nam? 2. Mấy vấn đề về văn hoá trong cách xung hố của người Việt 3. Về tính hữu học của người Việt xưa và nay 4. Sự nghĩ thêm về tính hữu học **Bản về học** 6. Chứng vì cường – hiên tương và xun nguyên 7. Chút ít lương tri trong thời kinh tế thị trường 8. Đôi chút tự trào 9. Quan điểm chủ toàn trong triết học Lão Trang và trong cấu trúc luận của Phương Tây — **Phần I: Tiếng Việt** **Mạnh bao tập** Từ năm 1953, khi tôi rời đoàn văn công để đi học đại, cho đến nay, khi đã trở thành một “nhà” ngôn ngữ học giả, tôi chưa bao giờ cống hiến phụng tâm lý tự ty và tâm lý đối với các nhà khoa học chân chính – những người giảng
tiếng Việt trường tôi cũng đã đi Biên Hoà hai người ròi!” và tôi cũng đã được nghe chính người thầy của tôi (một Nhà giáo Nhân dân) phát biểu trong một cuộc hội nghị do Bộ tổ chức là nên bớ hòn môn tiếng Việt ở trường phổ thông “dễ dành thì giờ học những món có ích hơn hay ít ra cũng không có hại bằng”. Dĩ nhiên, khi nghe những lời như thế, tôi và các bạn đồng nghiệp không khỏi thấy lòng đau như cắt, thấy danh dự của mình bị xúc phạm sâu xa, và vì thứ vị giáo sư nói trên không phải là thầy tôi, thì tôi đã không ngăn được một cử chỉ phản ứng hơn xước. Nhưng chỉ một giây sau, tôi, cũng như bất cứ ai có chút lương tri, phải tự nhủ rằng câu nói phù phàng ấy hoàn toàn có đủ cần cứ. Thế nhưng, trong khi các giáo sư toán lý hóa luôn luôn thấy mình cần ra sức rút ngắn cái khoảng cách giữa mình và khoa học tiến tiến của thế giới (một khoảng cách dễ hiểu và dáng được thông cảm nếu ta nhớ rằng nước mình đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh ác liệt khiến cho khoa học của ta ít nhiều cũng bị cách ly với sự phát triển như vũ bão của khoa học thế giới trong mấy mươi năm ấy), thì chúng tôi, các nhà giáo của khoa ngữ văn, lại không giây phút nào thấy mình cần làm việc đó. Không những thế, mà trong chúng tôi còn có không ít người thấy mình vượt lên phía trước rất xa so với các nước khác, đến nỗi trong một cuộc họp khoa, tôi đã tai nghe mắt thấy một bạn đồng nghiệp yêu cầu các giảng viên ngữ văn học khuyến sinh viên của ta từ giờ không đả cần các tác giả ngoại quốc nữa, vì thế giới ngay na là làm vào một con đường hoang trang trọng về khoa học xã hội, duy có Việt Nam làm thành một ác đò còn có được một nền khoa học ngữ văn lành mạnh. Hiện tượng này không đáng lấy làm lạ, vì ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần chữ nghĩa cũng có thể làm được đó là Văn và Ngữ. Cho nên tình trạng lạc hậu trong ngành học này là điều khó tránh khỏi. Lạc hậu mà mình học luạ (như riên các ngành khoa học chính xác) thì không sao: chỉ cần chăm chỉ đọc sách mới là chẳng bao lâu sẽ bắt kịp người ta; nhưng đến khi chúng tôi thì không phải như thế. Thấy rõ mình lạc hậu không phải là dễ; phải hiểu người ta tiến xa đến đâu đã, rồi mới ước lượng được cái khoảng cách giữa người ta với mình. Nhưng làm sao hiểu được điều đó khi bản thân mình còn sa lầy ở một giai đoạn mà người ta đã bỏ xa từ hơn nữa thế kỷ trước? Một số lớn trong chúng tôi lại thấy mình lạc hậu chính vì đã lạc hậu quá xa, nhìn về phía trước không còn trông thấy mô tê gì nữa. Vả lại, khi đã có đủ những cảm học ham học vì hằng mong ước rồi, rất ít người có thể tưởng tượng rằng mình mà lại cạn đọc sách mới làm gì nữa, nhất là sau khi thứ đọc một trang mà không hiểu nổi lấy một dòng. Một trong những bài có tổn nhất của thực dân Pháp là giáo dục mà đã áp đặt cho dân ta. Nên giáo dục ấy không nhằm đào tạo một dội ngũ trí thức. Nó chỉ nhằm đào tạo ra một lớp nhai lại. Ngay như môn tiếng Pháp, họ cũng không thèm quan tâm sửa đổi ý của sự tiến bộ của khoa học. Ngữ pháp tiếng Pháp mà họ dạy cho học sinh của ta là thứ ngữ pháp cổ lỗ của thời trước đại chiến thứ nhất, vốn không tiện ích xa hơn những tri thức tự thế kỷ XVIII. Điều này rất rõ đôi với bài kỹ ai đã dùng nó sanh sạch dạy tiếng Pháp ở Đông Dương năm 1945 với sách dạy tiếng Pháp ở Pháp cũng vào năm ấy (mà chỉ có một số ít học sinh Việt Nam học trong trường Pháp học). Dĩ hài của cái chủ trương ngu dân ấy cho đến ngày nay vẫn còn rõ mồn một. Sở dĩ việc dạy ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường của ta hoàn toàn thất bại là vì nó dùng được đem ra dạy chính là ngữ pháp tiếng Pháp, được miêu tả theo một lối cổ lỗ, chứ không phải ngữ pháp tiếng Việt, tuy dùng toàn thủ dụ tiếng Việt. Chỉ nhờ một sự trùng hợp tình cờ mà tiếng Việt có những cấu cú có thể phân tích được một phần ngữ pháp tiếng Pháp (của nhà trường Pháp trước đại chiến – Chữ ngữ, Động từ, Tân ngữ, v.v.), nhưng tiếc thay, những kiểu câu “Pháp- Việt đệ huề” như thế chỉ chiếm khoảng 20% trong số kiểu câu của tiếng Việt, còn các kiểu câu không hoàn toàn tiếng Pháp thì một là khi phân tích người ta tìm cách đảo lại cho tiếng không tiếng Pháp (như câu Tôi tên là Nam thành Tên (của) tôi là Nam); hai là cắt bớt cái phần không giống tiếng Pháp đi (bỏ chữ Tôi trong câu trên ra ngoài “nòng cốt cũ pháp”); ba là không phân tích những kiểu câu ấy, coi đó là “câu đặc biệt”, trong khi ít nhất có 70% kiểu câu như thế trong văn học dân gian, trong văn học cổ điển và hiện đại, cũng như trong tiếng nói hàng ngày mà ta vẫn nghe thường xuyên. Có một điều lạ là phần đông các tác giả ngày nay đang viết sách không biết tiếng Pháp, hay biết rất ít, cho nên không thể nói rằng “chịu ảnh hưởng Pháp quá nhiều”. Nhưng việc mô phỏng ngữ pháp tiếng Pháp lại là trở thành một truyện thông, nhờ uy tín của các bậc tiền bối mà có thể biết được ngữ pháp tiếng Pháp là gì. Thấy biết cái mới đấy. Chỉ thấy đổi xoành xoạch như năm này, giáo viên dạy


