


Lời Nói Đầu
Quyển “Hướng Dẫn Cách Đọc và Viết Tiếng Nhật” được biên soạn dành cho các học viên viễn thông Nhật và những người đã có một kiến thức cơ bản về đàm thoại tiếng Nhật và đang mong muốn tự làm quen với hệ thống chữ viết Nhật. Nhằm đáp ứng mục đích này, sách trình bày bài danh sách 1945 ký tự tự thông dụng đã được chính thức chấp thuận vào năm 1981 – đó là danh sách Jōyō kanji.
Sách được chia thành 2 phần chính. Phần 1 giới thiệu 1006 ký tự tự đã được bộ giáo dục Nhật Bản chỉ định giảng dạy trong 6 năm ở trường sơ cấp, được gọi là các ký tự cơ bản. Việc lựa chọn những ký tự này là kết quả của sự nghiên cứu rộng rãi và sự cân nhắc thận trọng của bộ giáo dục Nhật Bản. Đối với phần này, chúng tôi không những giới thiệu thêm mà còn hướng dẫn cách đọc và viết các ký tự cơ bản, bao gồm cả các từ ghép và từ phái sinh kèm theo nghĩa tiếng Việt tương ứng.
Phần 2 trình bày 1945 ký tự tự thông dụng được chỉ định cho việc sử dụng hàng ngày (bao gồm 1006 ký tự cơ bản được giảng dạy tại trường sơ cấp). Các ký tự tự trong phần này sẽ được sắp xếp theo thứ tự từ nét để bạn đọc dễ dàng tra cứu. Hơn nữa, có những ô bên cạnh các ký tự chúng tôi tôi không giải thích mà chỉ ghi một số đơn giản chẳng hạn như 39. Điều đó có nghĩa ký tự này thuộc trong số 1006 ký tự tự ở phần 1, bạn hãy quay trở lại số 39 để xem ký tự này có cách đọc và cách viết như thế nào, cũng như tra nghĩa của nó.
Hy vọng quyển sách này sẽ là một tài liệu học tiếng Nhật hữu ích cho bạn. Chúc bạn học thành công.
Hệ thống chữ viết Nhật hiện đại
Về các ký tự được chọn lọc
Tuy danh sách Jōyō kanji (kể từ giờ đi đường để viết tắt thành danh sách JK) không đại diện cho một danh sách toàn diện về các ký tự tự thông dụng mà học viên sẽ gặp phải trong các văn bản tiếng Nhật hiện đại, nhưng cùng với hai bảng ký hiệu âm tiết (hiragana và katakana) nó mang lại một nền tảng rất vững chắc cho việc đọc và viết tiếng Nhật hiện đại. Trong trường dạy tiếng Nhật, 1006 ký tự danh sách JK thường dùng hơn được dạy trong 6 năm của trường của cấp sơ cấp, 939 ký tự tự được phân bổ trong các chương trình giảng dạy trung học cơ sở và phổ thông. Các ký tự tự của danh sách JK cũng hình thành cơ sở của việc sử dụng ký tự tự trong các bài báo hiệu đại mặc dù đòi hỏi hiệu hội Báo chí Nhật Bản chọn chuyến hướng ra khỏi danh sách này theo một số cách. Đến cuối năm 2001, ngoài những ký tự tự thông dụng được chỉ định chỉ cho việc sử dụng hàng ngày (bao gồm 1006 ký tự cơ bản được giảng dạy tại trường sơ cấp). Các ký tự tự trong phần này sẽ được sắp xếp theo thứ tự nét để bạn đọc dễ dàng tra cứu. Hơn nữa, có những ô bên cạnh các ký tự chúng tôi tôi không giải thích mà chỉ ghi một số đơn giản chẳng hạn như 39. Điều đó có nghĩa ký tự này thuộc trong số 1006 ký tự tự ở phần 1, bạn hãy quay trở lại số 39 để xem ký tự này có cách đọc và cách viết như thế nào, cũng như tra nghĩa của nó.
Để viết tên của trẻ em, người Nhật ngày nay có thể chọn một tập hợp các ký tự tự gồm danh sách sách JK cùng với danh sách bổ sung các ký tự tự sử dụng trong các tên gọi. Danh sách ký tự tự tên đầu tiên này được chấp thuận vào năm 1951, gồm 92 ký tự tự, nhưng danh sách sách đó đã được mở rộng thêm 285 ký tự tự. Những ký tự tự này sẽ không được liệt kê ở đây.
Cách đọc các ký tự trong tiếng Nhật
Điều điển, mỗi ký tự tiếng Trung Quốc hoặc hai cách đọc – on-yomi và kun-yomi. On-yomi (cách đọc on, nghĩa là cách đọc Trung-Nhật) là cách đọc lướt qua dựa vào cách phát âm tiếng Trung Quốc kết hợp với mỗi ký tự tự, phản ánh việc chọn hệ thống chữ viết Trung Quốc phân tốt nhất cách đây 2000 năm khi tiếng Nhật chưa có hệ thống chữ viết. Trái với on-yomi là kun-yomi (cách đọc kun, nghĩa là cách đọc thuần Nhật). Trong một số trường hợp, một ký tự tự có nhiều cách đọc on, phản ánh những dạng khác nhau của tiếng Trung Quốc phát âm tiếng Trung Quốc nền tảng. Một ký tự tự cũng có thể có nhiều cách đọc kun (okuriganá) đi kèm là những gợi ý về cách đọc nào thích hợp trong trường hợp được cho.
Sách này dựa vào phần các cách đọc trình bày bài danh sách JK như đã xuất thể hiện trên Kanpō (công báo chính thức) ngày 1 tháng 10 năm 1981. Một số cách đọc bị loại bỏ vì chúng có từ “xưa” cho đến dùng nữa hoặc không thông dụng (ví du du nagonu [làm cho rủ]). Ngoài ra, trong số các cách đọc chính thức được liệt kê trong sách này, một vài vài đáng biến đổi đổi khỏi mẩu về cách đọc ký tự tự trong các từ ghép cũng không được đưa vào. Ví dụ, ký tự tự có cách đọc on GAKU, được rút ngắn thành GAK-, trong từ ghép 学校 gakko [trường học, trường cao đẳng], cách đọc kun ame [mưa] của 雨 thay đổi thành ama- như phần tử đầu tiên trong các từ ghép chẳng hạn như 雨 (amado [cửa chắn mưa]) và ký tự tự GO đọc được là GAT- trong từ ghép gotten [sự hiểu biết, sự đồng ý]. Đây là cơ sở để người học tiếng Nhật tìm hiểu thêm sau này nhằm nâng cao khả năng hiểu biết tiếng Nhật của mình.
Trong cách sử dụng tiếng Nhật hiện đại, có khá nhiều ký tự tự thiếu cách đọc on hoặc cách đọc kun. Ví dụ, ngày nay ký tự tự 糖 [đường, viên đường] được dùng chỉ cho cách đọc on TO, trong khi ký tự tự 箱 [hộp, thùng] chỉ được dùng cho cách đọc kun hako.
Viết các ký tự
Trước hết, việc rèn luyện nỗ lực luyện tập để biết giữ cho các ký tự tự có kích cỡ cỡ đều nhau. Do đó, ký tự tự hai nét 刀 katana nên được viết bên trong hình vuông hoặc hình tròn ào kích cỡ ngang bằng RON [lý lẽ, ý kiến] 15 nét và đồng thời phần tử tử nên được viết lớn hơn khi được
cùng làm một ký tự tự độc lập (đọc là GEN, GON, [lời nói, từ ngữ]) so với chỉ được dùng làm một thành phần trong một ký tự phức tạp hơn nhiều hàng như 倫 RON ở trên.
Thứ hai, hãy ghi nhớ các ký tự tự Trung Quốc đôi khi chỉ gồm một vài nét đôi khi nét, nhưng các ký tự tự luôn được viết theo thứ tự nét đã định sẵn. Dưới đây là một số nguyên tắc sẽ hỗ trợ về thứ tự ưu tiên của các nét.
- Từ trên xuống dưới
(Hình minh họa các ký tự được viết theo thứ tự từ trên xuống dưới) - Từ trái sang phải
(Hình minh họa các ký tự được viết theo thứ tự từ trái sang phải)
Các quy tắc khác là:
- Khi hai nét trở lên chéo nhau, các nét ngang thường được viết trước các nét đứng.
(Hình minh họa các quy tắc về nét ngang và nét đứng) - Nét chéo từ phải sang trái được viết trước nét chéo từ trái sang phải:
(Hình minh họa các ký tự được viết theo quy tắc nét chéo)
Các quy tắc trên có vẻ phức tạp. Song các bạn yêu thích môn tiếng Nhật cũng bỏ lỡ vì hệ thống chữ viết Nhật hiện đại đã được đơn giản hóa kể so với trước đây. Thực tế, đã có rất nhiều học viên viết tiếng Nhật rất thành thạo mặc dù bạn đầu họ không biết gì về tiếng Nhật cũng như kiến thức cơ bản về hệ thống chữ viết Trung Quốc.
Hệ thống kiểu chữ Roman
Có một số hệ thống khác nhau đại diện cho tiếng Nhật sử dụng bảng chữ cái La Mã (Roman). Sách này tận dụng một dạng đã được chỉnh sửa bởi chính chúa của hệ thống Hepburn, một hệ thống được dùng rộng rãi và dựa vào các quy ước kết hợp với cách viết tiếng Anh. Sự chỉnh sửa nhỏ nho nhỏ ao gồm dùng chữ n thay vì m để tượng trưng cho âm mũi khi đứng trước b, p, hoặc các âm mũi khác như shinbun [báo chí], honbai [phải chuyển nhượng], và kenpo [hiến pháp], không phải kenpo. Những kiếm khác cần lưu ý là:
- Dùng một phụ âm nguyên âm đôi để biểu thị sự kéo dài mãi nguyên âm cho o và u, ví dụ duru [trường học], renshu [thực hành];
- Dùng mỗi đầu mẩu để phân biệt ranh giới cho các phần tử trong một tiếng Nhật, ví dụ sara-arai [rửa bát đĩa] thay vì saraarài; và
- Dùng dấu gạch ngang ‘ ‘ thay vì dấu nối sau một âm mũi trong h, chẳng hạn như tan’i [đơn vị] (một từ gồm ba âm tiết ngắn sẽ được viết là tán ) trái với tan [thùng lũng] (một từ gồm hai âm tiết ngắn, được viết là た に trong chữ kana).
Cũng được bao hàm cho mỗi 1006 ký tự là thông tin về tổng số nét (số lượng nét) và thứ tự tự cần tuân theo khi viết các nét riêng lẻ. Trong hầu hết các trường hợp đều có ba ví dụ về các từ ghép ký tự cho mỗi trong những ký tự cơ bản này.
Phần hai trình bày tổng cộng 1945 ký tự thông dụng với các cách đọc on và/hoặc kun và nghĩa tiếng Việt, nhưng không có các từ ghép minh họa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các từ ghép chứa các ký tự nằm trong số 939 ký tự “không cơ bản” có thể được tìm thấy trong số các ký tự ghép được cung cấp cho mỗi trong 1006 ký tự tự ở phần 1. Thứ tự được chọn 1945 ký tự tự là thứ tự của số lượng nét. Do đó, để tránh sự lặp lại thái quá, mỗi trong 1006 ký tự tự cơ bản xuất hiện trong phần 2 được cho với sự tham khảo tương ứng với phần 1 mà người đọc có thể tham khảo để biết chi tiết.
Về các quy ước kiểu in được tận dụng để đưa ra các cách đọc và nghĩa cho các ký tự tự, những quy ước này được giải thích qua ví dụ bên dưới.
見¹ KEN¹; mi(ru)² , thấy, xem³
¹Cách đọc On trong chữ hoa.
²Cách đọc Kun trong chữ nghiêng thường. Các dấu ngoặc đơn được dùng để biểu thị các âm tiết cuối được viết trong chữ kana (do đó, mi(ru), vì từ này thường được viết là 見る).
³Nghĩa tiếng Việt được cho bằng chữ thường.
Cũng chú ý việc dùng một dấu phẩy sau cách đọc on để biểu thị rằng nó có thể được dùng làm một từ độc lập, ví dụ “ZA, ghế ngồi…” (nghĩa là từ có nghĩa ‘ghế ngồi’) trái với “U màn trường…” (nghĩa là “u” không hiện hữu như là một từ độc lập).


