


Lisha đến từ bang Arkansas Mỹ, cô cũng là người duy nhất ở trong thị trấn này được theo học đại học Havre. Trước khi có chuẩn bị đến với cả người học đại học Havre thì những người ở thị trấn này rất hài lòng vì cô được theo học ở đấy, bản thân cô cũng thấy hạnh phúc vì mình có cơ hội tuyệt vời như thế này. Nhưng, khi tinh thần hoang mang tan thì bỗng nhiên cô cảm thấy vô cùng tồi tệ. Sống sót vất vả tại đại học Havre, nghe giảng bài thì không hiểu, nói thì đặc biệt giọng nhà quê, những chuyện người ta biết chỉ có chăng biết tỷ gì, còn những gì cô biết thì mọi người lại thấyy cười. Cô bắt đầu hối hận vì mình đã đến đây học. Cô vẫn chưa hiểu tại sao mình phải đến đây học để phát triển, học trên và các chuyên gia gia chính sách (thường là phương Tây) hay nghi ngờ về cuộc sống của người nghèo. Thông thường khi tìm được bằng chứng xác đáng, chúng tôi sẽ đánh giá lại hoặc thậm chí loại bỏ những học thuyết họ có. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng tìm hiểu chính xác tại sao những học thuyết đó dắt bại, và cần điển chỉnh ra sao để những học thuyết đó mô tả thế giới này đúng đắn hơn.
Quyển sách này ra đời từ những điều chỉnh đó, là nỗ lực của chúng tôi nhằm xấu chuỗi một câu chuyện hợp lý về cuộc sống của người nghèo. Lisha vô cùng cảm thấy đơn hơn bao giờ hết, cảm thấy mình là người tự ti nhất Havre. Trong tình trạng ấy cô phải đi vấn đề tâm lý. Bác sĩ tâm lý đã chuẩn đoán cô như sau: “Cô đã bước qua “thế kỷ mới” của người trưởng thành, nhưng cô vẫn lưu luyến với “thế kỷ cũ” trước kia. Cô không muốn cách thích ứng với những cuộc thách thức, cô đã rụt mình vào một góc, sợ hãi nhìn mọi người rồi còn than vẫn mình thật bất hạnh và chẳng ra gì. Cô đã tề liệt với thành tích huy hoàng là có thể vào được trường đại học Havre. Bây giờ cô chỉ nhìn thấy những khó khăn, thất bại trước mắt, không có niềm tin để tạo dựng những huy hoàng của đời. Cô đã quen làm con lạc đà trong bảy cừu, cô không cần làm con cừu non trong bảy lạc đà. Cô đã đối phó với nhu cầu học tập của sinh viên bằng những phương pháp học tập thời trung học, như vậy hoàn toàn không thích hợp, nhưng cô vẫn cố ôm lấy những cách này mà không biết phải quay đời như thế nào? Cô chỉ có đến từ một vùng quê nghèo, nỗi nặng thì quê mùa, làm việc gì cũng ngốc nghếch, lúc nào cũng nghĩ rằng mọi người xung quanh đang miệt thị, ruồng rẫy mình. Cô không ý thức được rằng, chính vì có quá tự ti nên những người xung quanh không thể gần gũi và giúp đỡ cô được. Cô sinh ra và lớn lên vùng Nam Bộ, cô theo học tại Boston, miền Đông Đông nên phải đối mặt với sự xung đột thế giới ở Mỹ, thì những người nghèo căn thiếp đến văn học.
Không ngờ rằng, Havre những là thiên đường tìm tòi kiến thức mà cũng là lôi tôi luyện nhập văn hóa. Cô có đáng người nhỏ bé, diện mạo cũng bình thường, bao nhiêu năm nay chỉ có sự bù đắp duy nhất về tinh thần đó là học hành xuất sắc. Nhưng bây giờ cô đã gặp rất nhiều người xuất sắc đến từ nhiều vùng đất trên thế giới nên cô không còn ưu thế để nói. Bây giờ, diện mạo của cô cũng bình thường, học hành cũng bình thường, tất cả những điều này đã phá tan tâm lý cân bằng trong cô trong bao nhiêu năm nay, khiến cô lâm vào sự hoang mang. Nhưng, chỉ tình thân, Lisha lần đầu biết đến thành phố Calcutta qua tập truyện tranh về Mẹ Teresa. Thành phố này chật chội tới mức mỗi người chỉ có gần 1 mét vuông để ở. Trong đầu em hiện lên ảnh một thành phố rộng lớn như bản cỡ với những ô vuông 30×30 kế thẳng trên mặt đất. Ở nào cũng chằng chịt dấu chân người. Khi đó Esther chưa biết mình và vùng đất ấy sẽ có mối nhân duyên gì. Cuối cùng vào năm hai tư tuổi, khi đang là sinh viên trường đại học MIT, Esther thực sự đặt chân đến Calcutta. Trên đường vào thành phố, cổ thoảng thốt vọng trước những gì mình nhìn thấy qua cửa kính xe taxi. Không gian trống ở khắp nơi – cây cối, thảm cỏ, những lẽ đường trống trải. Tất cả những người khốn khổ được về sống động trong tập truyện tranh kia đâu rồi? Họ đi đâu cả rồi? Sáu tuổi, Abhijit đã biết người nghèo sống ở đâu. Họ sống trong những căn nhà xiêu vẹo đó nát sau lưng nhà em ở Calcutta.
Hình như đám trẻ con nhà nghèo lúc nào cũng dư dả thời gian chơi đùa và trò chơi gì cũng siêu. Mỗi lần chơi bắn bi, bi của Abhijit cuối cùng thế nào cũng chút tọt vào túi quần cóc rưới của bọn trẻ nhà nghèo. Abhijit vô cùng ghen tị. Người nghèo hay bị đóng khung vào những mô tuýp rập khuôn. Khuynh hướng này tồn tại từ rất lâu, kể từ khi đói nghèo xuất hiện. Trong các học thuyết xã hội cũng như trong văn chương, hình ảnh người nghèo được khắc họa như sau: không lưỡi biếng, thì dám nghĩ dám làm, không cao quý thì trộm cắp, không gian dứ thì thụ động, không vọng thứ tự lực cánh sinh. Ứng với suy nghĩ định kiến đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi quan điểm chính sách cũng chỉ quẩn quanh những công thức đơn giản: “Thị trường tự do cho người nghèo”, “Thực hiện nhân quyền thực sự”, “Giải quyết mâu thuẫn trước”, “Bơm nhiều tiền hơn nữa cho triển, đại loại như vậy. “Hiện tượng nước ngoài dẫm dàng ra người nghèo nên được nhìn nhận như những con người bình thường. Họ cũng như chúng ta, cũng có hy vọng và hoài nghi, hạn chế và khát khao cũng biết báo hoang mang và tin tưởng.
Tuy nhiên, dù có được đoái hoài tới, người nghèo vẫn chỉ hiện lên đầy kịch tính như nhân vật chính của một vở bi kịch hay câu chuyện vượt lên số phận nào đó, để được thương hại hoặc khám phục, chứ không phải để được nhìn nhận như những người cần được tư vấn về điều họ suy nghĩ, mong muốn hay thực hiện. Người ta thường xuyên nhầm lẫn kinh tế học về tình trạng nghèo đói với kinh tế học về người nghèo. Người nghèo hầu chẳng có tài sản gì, nên ta hay cho rằng chẳng có gì để bàn về đời sống kinh tế của họ. Đây là nhầm lẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc chiến chống đói nghèo toàn cầu, vì nếu vấn đề bị lầm tưởng là đơn giản thì giải pháp sẽ bị đơn giản hóa. Chính sách chống đói nghèo là lĩnh vực đầy rẫy những giải pháp có vẻ màu nhiệm trong thực tế chẳng mấy hiệu quả. Để tìm ra giải pháp thực sự, chúng ta cần bỏ thói quen biến người nghèo thành những nhân vật như trên. hình ảnh, dành thời gian nghiêm túc tìm hiểu về cuộc sống của họ với tất cả sự phức tạp và đa dạng sẵn bền trong. Đó là những gì chúng tôi cố gắng thực hiện trong vòng mười lăm năm qua.
Như hầu hết những người làm công tác nghiên cứu khác, chúng tôi xây dựng học thuyết và quan sát dữ liệu. Nhưng thực chất công việc này đòi hỏi phải dành tháng hàng, hàng năm trời trên trường, làm việc với các nhà hoạt động phi chính phủ (NGO) và quan chức chính phủ, nhân viên y tế và các tổ chức tài chính vì mô. Công việc này đưa chúng tôi đến những cung lũng và ngôi làng nơi người nghèo sinh sống, hồi han họ và tìm kiếm dữ liệu. Cuốn sách này sẽ không thể rời ra đời nếu không nhờ vào lòng tốt của những người chúng tôi đã gặp. Họ luôn tiếp đón nóng nhiệt, mặc dù chúng tôi thường xuất hiện như những vị khách không mời. Họ kiến nhẫn trả lời câu hỏi dù đôi khi chưa thật sự rõ ràng mạch lạc; chúng tôi đã được chia sẻ nhiều câu chuyện.[1] Quay trở lại văn phòng, nhờ lại những câu chuyện này khi phân tích dữ liệu, chúng tôi vừa nhận khỏi vừa bối rối, cố gắng khớp điều mắt thấy tai nghe vào những mô hình đơn giản mà các nhà kinh tế học phát triển và vào các chuyên gia gia chính sách (thường là phương Tây) hay nghi ngờ về cuộc sống của người nghèo. Thông thường khi tìm được bằng chứng xác đáng, chúng tôi sẽ đánh giá lại hoặc thậm chí loại bỏ những học thuyết họ có. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng tìm hiểu chính xác tại sao những học thuyết đó dắt bại, và cần điển chỉnh ra sao để những học thuyết đó mô tả thế giới này đúng đắn hơn.
Quyển sách này ra đời từ những điều chỉnh đó, là nỗ lực của chúng tôi nhằm xấu chuỗi một câu chuyện hợp lý về cuộc sống của người nghèo. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những người bản cùng trên thế giới. Tại 50 quốc gia mà hầu hết người nghèo tập trung sinh sống, chuẩn nghèo bình quân là 1,6 rupi Ấn Độ mỗi người mỗi ngày. [2] Theo đánh giá của chính phủ các nước, những người sống dưới mức tối thiểu đó được gọi là nghèo. Nếu quy đổi theo tỉ giá hối đoái hiện hành, 1,6 rupi tương đương với 36 xu Mỹ. Nhưng vì vật giá ở hầu hết các nước đang phát triển đều rễ hơn, do đó nếu tính theo giá ở Mỹ, thì người nghèo căn thiếp đến nhà để mua những món tương đương tại Ấn Độ, cụ thể là 99 xu.
Do vậy, để định dùng cuộc sống của người nghèo, ta phải tưởng tượng mình sống ở Miami hay Modesto với 99 xu mỗi ngày cho hầu hết các nhu cầu thiết yếu (không tính chi phí nhà cửa). Điều này không dễ dàng – chẳng hạn như ở Ấn Độ với số tiền tương đương, người ta có thể mua được 15 trái chuối nhỏ hay gần 1,5 ký gạo xấu. Liệu có thể sống với chi phí đó tiền? Trên toàn thế giới vào năm 2005, 865 triệu người (13% dân số thế giới) phải sống trong túng cảnh đó. Điều ngạc nhiên là người nghèo chẳng có gì khác biệt. Họ cũng có những khát khao và hạn chế như chúng ta; và cũng biết suy xét như bất kỳ ai. Họ hầu như chẳng có gì, chính điều này khiến người nghèo cần trọng hơn mỗi khi đưa ra quyết định. Họ phải xoay xở khéo léo với tiền bạc chỉ để tiếp tục tồn tại. Nhưng cuộc sống của họ và chúng ta như nước sông vẫn trôi nổi. Điều khác biệt ở đây ấy, họ có liên quan đến những khía cạnh cuộc sống mà ta luôn cho là chuyện đương nhiên và hầu như chẳng bao giờ nghĩ đến. Người ta thường xuyên nhầm lẫn kinh tế học về tình trạng nghèo đói với kinh tế học về người nghèo.
Người nghèo hầu chẳng có tài sản gì, nên ta hay cho rằng chẳng có gì để bàn về đời sống kinh tế của họ. Đây là nhầm lẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc chiến chống đói nghèo toàn cầu, vì nếu vấn đề bị lầm tưởng là đơn giản thì giải pháp sẽ bị đơn giản hóa. Chính sách chống đói nghèo là lĩnh vực đầy rẫy những giải pháp có vẻ màu nhiệm trong thực tế chẳng mấy hiệu quả. Để tìm ra giải pháp thực sự, chúng ta cần bỏ thói quen biến người nghèo thành những nhân vật như trên. hình ảnh, dành thời gian nghiêm túc tìm hiểu về cuộc sống của họ với tất cả sự phức tạp và đa dạng sẵn bền trong. Đó là những gì chúng tôi cố gắng thực hiện trong vòng mười lăm năm qua. Như hầu hết những người làm công tác nghiên cứu khác, chúng tôi xây dựng học thuyết và quan sát dữ liệu. Nhưng thực chất công việc này đòi hỏi phải dành tháng hàng, hàng năm trời trên trường, làm việc với các nhà hoạt động phi chính phủ (NGO) và quan chức chính phủ, nhân viên y tế và các tổ chức tài chính vì mô. Công việc này đưa chúng tôi đến những cung lũng và ngôi làng nơi người nghèo sinh sống, hồi han họ và tìm kiếm dữ liệu. Cuốn sách này sẽ không thể rời ra đời nếu không nhờ vào lòng tốt của những người chúng tôi đã gặp.
Họ luôn tiếp đón nhân vật chính diện đều giàu có, vậy họ có trở nên độc ác, họn hình và biến thành những lão bá hộ độc ác, tham lam hay không? Tôi tin là không, bởi những nhân vật đó đều là những người tốt bụng, giàu lòng yêu thương và chăm chỉ. Bỗng nhiên, truyện cổ tích đến đây gặp mẫu thuẫn. Rõ ràng phú quý, giàu có lại là kẻ xấu xa, vẫn có rất nhiều người giàu tài giỏi và tốt bụng. Thế giới thực là như vậy! Mỗi việc xảy ra ra trong đời đều có nguyên do của nó và tương tự như vậy, những người giàu không tự dưng giàu lên và hưởng cuộc đời phú quý. Cũng không ai đem đến cho họ một kho bạc hay thậm chí một căn nhà to, cửa rộng. Mỗi phép màu trong truyện cổ tích chỉ nằm trong trí tưởng tượng và ảo tưởng của chúng ta, chứ chúng chưa bao giờ bước ra ngoài thực tế để hô biến “người nghèo” thieren trở thành kẻ giàu có. Không dừng lại ở đó, người giàu đều ngu ngốc, nếu ngu ngốc thì họ đã không kiếm ra ngần ấy tiền và sống một cuộc đời vương giả như thế. vậy mẫu chốt của vấn đề đề là đâu? Vì sao có những người thoái nghèo rồi trở thành triệu phú, tỷ phú trong khi đó có những “người nghèo” lại cứ mãi “nghèo” đi, thậm chí họ biến cuộc đời mình rơi vào cảnh “nghèo gia truyền”? Đáp án chỉ có thể là họ tự mình gây dựng cơ nghiệp, họ không phó mặc số phận hoặc đợi Bụt hiện lên và ban cho ba điều ước, cuộc sống này này nảy truyện cổ tích ở hai chữ “thực tế”.
Truyện cổ tích có chức năng xoa dịu hiện thực ngặt nghèo và bi thảm, giúp “người nghèo” có niềm lạc quan sống hơn. Mà một trong những giấc mơ cao cả của họ là làm vua hay hoàng hậu, những nhân vật tượng trưng cho giàu có quyền lực. Cổ tích là thế giới ảo diệu, mộng mơ, cho phép người đọc bay vào những khát vọng mênh mông và bao la, khiến “người nghèo” luôn tin rằng ở hiền sẽ gặp lành và nhất định một cơ duyên nào đó sẽ giúp mình đổi đời hay phất lên. Nhưng những câu chuyện cổ tích không bao giờ xây dựng lên hiện thực xã hội, chúng chỉ có vai trò gột sạch tâm hồn ta, không để cái ác trống trị chứ không diễn tả được cuộc tranh đấu bằng năng lực, trí tuệ để giàu có lên như người Lisha đã biết rằng, cô vẫn đang ở trong thị trấn này.
Trước khi có chuẩn bị đến với cả người học đại học Havre thì những người ở thị trấn này rất hài lòng vì cô được theo học ở đấy, bản thân cô cũng thấy hạnh phúc vì mình có cơ hội tuyệt vời như thế này. Nhưng, khi tinh thần hoang mang tan thì bỗng nhiên cô cảm thấy vô cùng tồi tệ. Sống sót vất vả tại đại học Havre, nghe giảng bài thì không hiểu, nói thì đặc biệt giọng nhà quê, những chuyện người ta biết chỉ có chăng biết tỷ gì, còn những gì cô biết thì mọi người lại thấyy cười. Cô bắt đầu hối hận vì mình đã đến đây học. Cô vẫn chưa hiểu tại sao mình phải đến đây học để phát triển, học trên và các chuyên gia gia chính sách (thường là phương Tây) hay nghi ngờ về cuộc sống của người nghèo. Thông thường khi tìm được bằng chứng xác đáng, chúng tôi sẽ đánh giá lại hoặc thậm chí loại bỏ những học thuyết họ có. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng tìm hiểu chính xác tại sao những học thuyết đó dắt bại, và cần điển chỉnh ra sao để những học thuyết đó mô tả thế giới này đúng đắn hơn.


