Tải FREE sách Hướng Dẫn Thiết Kế Lò Hơi PDF có tiếng Việt

Tải FREE sách Hướng Dẫn Thiết Kế Lò Hơi PDF có tiếng Việt

Tải FREE sách Hướng Dẫn Thiết Kế Lò Hơi PDF có tiếng Việt là một trong những Sách các môn học đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Hướng Dẫn Thiết Kế Lò Hơi PDF có tiếng Việt đang được Nhà Sách Tiền Phong chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Bạn chỉ cần nhấn vào nút “Tải sách PDF” ở phía bên dưới là đã có thể tải được cuốn sách bản PDF có tiếng Việt về máy của hoàn toàn FREE rồi.

**PHẦN I** **LỜI MỞ ĐẦU** **LƯỢC TRÍCH ĐỀ MỤC CỦA BỘ TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỰC** **Tân Biên** là bộ sách mới, ghi chép những sự tích của đức Quán Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Bộ sách này được nói là mới để phân biệt với những sách xưa cũng ghi chép lại những sự tích của đức Quán Âm cứu khổ ban vui cho chúng sanh. **Quán Âm** là Thành hiệu của một vị Bồ Tát mà giới Phật tử đâu biết và từng nghe danh hiệu của Ngài. Tuy nhiên, dĩ nhiên rổ hơn. Dịch giả xin trích dẫn phần giải thích Phật hiệu nầy trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn. Đoạn Bản Sư Thích Ca đã giới thiệu nhãn hiệu của Ngài. Thấy vậy, nhứt là Ngài Quán Âm Bồ Tát thì những chúng sanh ấy đều được giải thoát khỏi tai nạn qui La Sát, vì nhãn duyên ấy nên được gọi là Quán Thể Âm. **Linh cảm** là hai chữ rất gọn, nếu nói đủ thì phải gọi là Đại từ, Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quán Đạ Linh Cảm, bởi vì Đức Quán Âm Bồ Tát thông thường những khổ cứu nạn cho chúng sanh trong lục đạo mà còn cứu nguy cho các hàng Thánh nhân trong Tam Thừa, vì thế nên chẳng những chúng sanh trong lục đạo trí niệm danh hiệu của Bồ Tát mà chúng sanh trong Tam Thừa cũng đều trí niệm, thế nên, tâm đại từ bi của Bồ tát phổ biến trong căn chỉ pháp gọi nên được gọi là Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quán Đạ Linh Cảm. Dịch giả lể ra không cần thiết phải viết Lời Mở đầu cho quyến sách nầy vì đã có phần Bồ Tựa quy Gái của Lão Tiên Tháp Tam Tố. Đó là những lời vàng ngọc hữu dáy bảo hàng Phật tử phải thành tâm trí niệm danh hiệu của Đức Đại Sĩ Quán Âm. Trong khi dịch giả tự xét mình là kẻ hậu học, vấn vụng về quá, lại dĩ việt lời mở đầu là việc không phù hợp cho lắm. Tuy nhiên, theo thiển ý, Dịch giả nhận thấy Phật pháp quảng đại vô biên, nên dù chúng sanh trên quả địa diểu thành vô thượng giác, hiện tướng lưỡi rồng trổi, dùng sức thần thông, sức trí huệ, trải qua số kiếp như vì trên, tâm đầy đủ sự kiện tu tập quảng đại của Phật pháp cũng không thể nói hết được. Vì thế nên dù ở học kèm với những Dịch giả cũng không ngần ngại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình, thành thật phổ bày tấm lòng thành với đọc giả về một số gương điển sau đây: Kính thưa quý vị, Bộ sách Đường về Cực lạc do Hòa Thượng Vạn Đức (Thượng Tọa – Hoà Thượng) Tịnh Cảnh dịch sau khi xuất bản, dịch giả được nghe một số vị gỡm cả Phật tử, tệ giả và người xuất gia phải bình rằng: Truyện vãng sanh là chuyên những người tu hành được vãng sanh, chỉ cần phải nhọc công phiên dịch khiến cho đọc giả phải chán tai, mỏi mắt và mất thời gian. Có người lại cho rằng nên dể thời gian ấy để dịch Kinh sách luận và Giáo lý thì thiết thực hơn là bỏ công dịch truyện Vãng sanh. Thưa quý vị, theo thiển ý của dịch giả thì những lời bình phẩm trên là sai (lầm) và gây tai hại rất lầm. Tại sao thế? Vì Nho thơ có câu: “Hại trung hậu lãng, thời tôn lăng: Thử thường tài nhơn, vân cựu nhơn”, nghĩa là “Sống biển lớp sau đia lớp trước. Sự đời tuôi trẻ hỏi người xưa.” Sự tu hành cũng thế, chúng ta là kẻ hậu học nên cần phải biết công phu tu trì của các bậc tiền nhân đó nói theo gương sáng của các Ngài mà thực hành theo. Nếu theo quan niệm như của các Phật tử nói trên thì hỡi chư Tôn Tiếng Lân Tôn và quí tiền bối trong Phật pháp, cần chì phải sưu tầm các sự tích vãng sanh trải qua nhiều đời, vừa khổ nhọc, lại phí công về ích? Hơn nữa, xin quý vị hãy đọc toàn bộ Tịnh Độ Thần Hồn Lạc hoặc Đường về Cực Lạc. Trong ấy hàng ngàn sự tích vãng sanh, mỗi sự tích không chỉ bi lại việc vãng sanh vào giờ phút lâm chung mà còn là bao lời dạy khuyên quý hóa về ngăn để làm kim chỉ nam cho chúng ta tu học hiệu quả. Cuối cùng, Dịch giả thành kính xin các bậc Cao minh, Đại đức, Đại sĩ trong giới xuất gia cũng như chư Phật tử tại gia, khi đọc bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lực nầy, nếu thấy có chỗ sai lầm, xin từ bi phủ chính và chỉ giáo cho. Dịch giả thành tâm tạ ơn. Kim Cần (962) Sa môn Thích Trí Minh — **LỜI TỰA CỦA** **LIÊN TÔNG THẬP TAM TỔ ẨN QUANG PHÁP SƯ** Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện sâu rộng không ngăn, tâm Tử Bi quảng đại vô biên, thế nên Ngài phần thân khắp vị trần số độ trong mười phương thế giới, tùy duyên hiện hình, tâm thính cứu khổ, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi vòng khổ não. Đặc biệt, với chúng sanh ở cõi Ta bà này, tâm bi mẫn của Ngài cũng chỉ thiết, thế nên chúng sanh nào chi thành xưng niệm đâu được Ngài cứu độ không bỏ sót một a. Những năm gần đây, tất cả nhân loại thường gặp rất nhiều hoạn nạn, khổ ích, có muôn trốn thoát cũng khó đặng và cũng không có phương gì để tránh cho khỏi. Vì sao vậy? Vì trong thời hiện đại này, thế đạo nhân tâm xấu ác, đạo đức điên đảo cực độ. Đối với cha mẹ là người có đại ân đức, sanh thành dưỡng dục mà còn ngang nhiên dể xuông bậc bổ hiếu đạo, kết bạn bè cùng với những kẻ ác nghịch giết hại cha mẹ. Thế nên, những ai sanh ra trong thời kỳ này, chẳng phải là việc buôn đau, đặng thương xót hay sao? Đại phàm những người có chánh trí chánh kiến, không một ai chẳng lưu tâm nghiền cứu Chánh pháp, không một ai chẳng lo tu Tịnh nghiệp để mong thoát ly cõi đời ác ngũ trước này, mau chóng dự vào Liên Trì Hải Hội, như thế mới mong được thoát khỏi vô lượng thống khổ nơi cõi Ta bà này và được hưởng thọ sự an vui nơi Lạc quốc. Những đời với chúng ta, khi chưa được và Lạc quốc và vẫn còn đắm chìm trong cảnh khổ nơi Ta Bà thì cần phải có đấng Mẹ hiền để làm nơi nương tựa. Đấng Mẹ hiền ấy chính là Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, vì Bồ Tát đối với Ta bà đâu khổ, nhất là trong thời kỳ mạt pháp này. Ngài đặc biệt sanh khởi tâm Đại Từ bi, vận dụng công Lực bi đổng thế. Đối với tất cả khổ khốn khổ, Ngài luôn tùy cứu độ. Thế nên, chúng sanh nào xưng niệm danh của Ngài, nếu lâu gặp nguy hiểm liền hóa thành kiết tường, gặp phải tai nạn thì biến thành an lạc. Những sự việc linh ứng của Bồ Tát không bút mực nào có thể tả xiết. Các tích cảm ứng của Bồ Tát thường thấy mác trong các sách nhưng những bộ sách chuyện ghi chép sự linh ứng của Ngài thì có thể nói đến như Quán Âm Tự Lâm của Hoằng Tân Đại sư, Quán Âm Bốn Tích Tụng của Cư sĩ Châu Khắc Phục, Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ Vưu Tích Âm, Quán Âm Bốn Tích Tụng của Cư sĩ Hứa Chi Tỉnh, Quán Âm Linh Nghiệm Ký của Cư sĩ Nhiếp Văn Đài. Các bộ sách này đều có ưu hành trong nhân gian để mọi người trong các giới đều được đọc, nghe và truyện tụng. Trong tất cả các ghi chép được xem là hoàn bị nhất thì chi bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục của Cư sĩ LÝ Viên Tỉnh vì Cư sĩ đã tổng thâu tất cả các bộ sách khác mà biên tập thành một bộ sách này. Có thể nói bộ sách này là tập truyện đầy đủ và những khía cạnh ứng nghiệm linh cảm của Đức Quán Âm, đồng thời làm chỗ y cứ cho tất cả những người có tín tâm trí niệm danh hiệu Đại Sĩ. Tuy nhiên chúng ta nên biết vì sao Đức Quán Âm Bồ Tát có thể linh cảm được như vậy? Bởi vì Ngài có thể phân thân, vận tự tánh (nghĩa là không nghe theo thình trên mà trôi lại nghe nơi tự tánh) và chiếu lầm ngũ uẩn giải không (tức dùng trí soi chiếu điều thấy thấy thân ngũ uẩn đều là không thật có). Thế nên, Tôi mong những vị nào được xem bộ sách này mà có thể chỉ thành khẩn thiết niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ, niệm đến lúc tất cả vọng niệm tiêu vong, chánh niệm hiện tiền thì tất cả phiền não ác nghiệp hiện có đều tiêu tan và quán được tất cả những cảnh duyên khổ vui đều không thật có. Chính trong trạng thái không thật có này, có thể phơi khơi được tâm đại từ, vận dụng tâm đại bi, tùy cơ tập dẫn hóa độ, dùng tâm của Đức Quán Âm làm tâm mình, dùng việc làm của Đức Quán Âm làm việc làm của mình, điều muốn cho khắp chúng sanh đang bị thống khổ đặng được gõi nhàn ân đức của Bồ Tát Quán Thế Âm, từ ngày nay cho đến đời vị lai, đồng nhau thực hành hạnh của Đức Quán Thế Âm để triền chuyên cứu độ. ầm nhau, đây là bàn hoại của lão Tăng khi dể tựa vậy. Mùa Thu Năm Kỷ Ty, Tâm Quý Tông Thích Ấn Quang kính của đệ tử — **MỞ ĐẦU** Trong quyển sách này tác giả trình bày một phương pháp thiết kế lò hơi gồm có ba phần tinh toán quan trọng nhất dùng cho các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và các nhà thiết kế lò hơi. Đó là: 1. Tinh toán nhiệt lò hơi để xác định cấu tạo các bề mặt đốt trong lò. 2. Tinh toán khi động để chọn các loại quạt gió và quạt khói. 3. Tinh toán sức bền để chọn vật liệu và bề dày cần thiết cho các bộ phận của lò hơi, đảm bảo vận hành an toàn tuyệt đối. Đối với các lò hơi có công suất rất lớn, tất nhiên còn cần thêm phần tính toán thủy động trong lò. Phần này trong trường hợp cần thiết các nhà thiết kế có thể tìm hiểu thêm trong các tài liệu khác. Sách được trình bày rõ ràng dễ hiểu, có đầy đủ các số liệu tra cứu và các giản đồ để thiết kế có thể xác định từng đại lượng một cách thuận tiện và nhanh chóng. Tài liệu này có thể dùng để thiết kế tất cả các loại lò hơi từ loại lò nhỏ nhất đến loại cực lớn và hiện đại nhất. Tinh toán nhiệt lò hơi bao gồm những chi dẫn về phương pháp, cấu tạo, tra cứu, các công thức tính toán và các giản đồ chi tiết để tính toán nhiệt kiểm và thiết kế chế tạo lò hơi. Phương pháp tinh toán kiểm tra và thiết kế đều giống nhau. Chừng khi lĩnh nhau về mục đích tính toán và các đại lượng cần tìm. Trong tính toán nhiệt tra người ta sẽ dựa vào cấu tạo và các kích thước của lò hơi, dựa vào phụ tải hơi và loại nhiên liệu đốt trong lò để xác định nhiệt độ của nước, hơi, không khí và khói tại ranh giới giữa các bề mặt đốt, hiệu suất, tiêu hao nhiên liệu, lưu lượng và tốc độ không khí và khói. Tinh toán kiểm tra cần được tiến hành để đánh giá tính kinh tế và độ tin cậy của thiết bị, phát hiện ra những biến pháp cải tiến thiết kế, chọn các thiết bị phụ và nhận các số liệu cần thiết để tiến hành tính toán thủy động và nhiệt độ kim loại… Trong tính toán thiết kế người ta xác định kích thước của buồng lửa và các bề mặt đốt của lò hơi để nhân dân được một phụ tải định mức, hiệu suất lò cho trước và các thông số hơi và nước đã chọn đối với nhiệt độ nước cấp và các đặc tính của nhiên liệu cho trước. – Phụ tải hơi định mức là phụ tải lớn nhất của đại dương của lò hơi khi vận hành lâu dài với những thông số hơi cho trước. Trong nhiệm vụ tính toán còn phải xác định tiêu hao nhiên liệu, lưu lượng không khí và khối đế chọn các thiết bị phụ. Khi tính cùng của lưu ý đến điều kiện đảm bảo sự làm việc bình thường của thiết bị (ngăn ngừa sự dông xi hoặc tro trên các bề mặt đốt, chống ăn mòn các ống bơi tro bụi, dễ phòng cháy ống và chống sét rỉ kim loại…). Nếu cần thì trên cơ sở của tính toán nhiệt có thể tính thêm thủy động, nhiệt độ kim loại, tốc độ ăn mòn bơi tro bụi. Các số liệu ban đầu để tính kiểm tra gồm có: 1. Các bảng về lò hơi và các số liệu về cấu tạo và kích thước của buồng lửa, cấu bề mặt đốt và đường khói lửa đã di xác định tất cả các đặc tính cấu tạo cần thiết; 2. Đặc tính của nhiên liệu liệu; 3. Phụ tải hơi của lò, áp suất và nhiệt độ của hơi quá nhiệt (tại van chính ra khói lò), nhiệt độ nước cấp, áp suất trong bao hơi; 4. Nếu có quá nhiệt trung gian thì phải có thêm thông số của bao hơi và nguồn khí quá nhiệt trung gian. 5. Lưu lượng nước bão hòa (khi lấy từ bao hơi); 6. Lưu lượng nước xả lò; 7. Các số liệu lấy từ tính toán hệ thống nghiêng bột than đối với các lò hơi đốt bằng bột than phun vào buồng lửa. Các số liệu ban đầu để tính toán thiết kế gồm có: 1. Loại buồng lửa và cách bố trí thiết bị; 2. Các phần còn lại cũng giống như trong tính toán kiểm tra. Nhiệt độ đó khói và không khí có thể cho trước hoặc chọn theo các điều kiện cụ thể thiết kế. — **CHƯƠNG MỘT** **KẾT CẤU VÀ QUÁ TRÌNH LÀM VIỆC CỦA LÒ HƠI** **1.1 PHÂN LOẠI LÒ HƠI** Theo công dụng, lò hơi có thể có các loại: a) Lò hơi công nghiệp dùng để cung cấp hơi cho các quá trình công nghệ cần sử dụng nhiệt nhu là các nhà máy dệt, nhà máy giấy, các nhà máy chế biến thực phẩm và hóa chất… b) Lò hơi sử dụng cho các máy năng lượng như để quay tua bin hơi phát điện trong các nhà máy nhiệt điện, sử dụng làm sức kéo cho tàu hỏa và tàu thủy trong ngành giao thông vận tải, đồng thời cũng có thể làm sức kéo cho các loại bơm và máy nén có công suất lớn. * Theo công suất hơi có thể có các loại: a) Lò hơi nhỏ D < 12 t/h; b) Lò hơi trung bình 12 t/h < D ≤ 110 t/h; c) Lò hơi lớn D > 110 t/h; d) Lò hơi cực lớn D > 600 t/h; * Theo áp suất hơi: a) Lò hơi hạ áp P ≤ 10 ata; b) Lò hơi trung áp 10 ata < P ≤ 40 ata; c) Lò hơi cao áp 40 ata ≤ P ≤ 100 ata; d) Lò hơi siêu cao áp P > 100 ata; * Theo nhiệt độ hơi: a) Lò hơi không có bộ quá nhiệt (hơi bão hòa); b) Lò hơi có bộ quá nhiệt (hơi quá nhiệt); c) Lò hơi có bộ quá nhiệt trung gian; * Theo sơ đồ chuyển động của nước và hơi: a) Lò hơi tuần hoàn tự nhiên (có bao hơi); b) Lò hơi tuần hoàn cưỡng bức (có bao hơi và bơm tuần hoàn hỗn hợp nước và hơi); c) Lò hơi trục hứu (không có bao hơi). Ngoài ra còn có thể phân loại lò hơi theo phụ tải nhiệt Q, (kcal/h). Đại lượng Q, dùng để đánh giá công suất của lò một cách chính xác và toàn diện nhất, vì nó phụ thuộc vào công suất hơi và các thông số của nó. **1.2 QUÁ TRÌNH THIẾT KẾ VỀ CẤU TẠO CỦA LÒ HƠI** Hình 1.1 chỉ rõ quá trình thiết kế về cấu tạo của lò hơi. Chuyển từ lò hơi sang loại khác là do yêu cầu ngày càng tăng công suất, tăng thông số hơi và đồng thời giảm tiêu hao kim loại và nhiên liệu cho lò hơi. Chuyển từ lò hơi hình trụ (a,b) và các loại lò hơi ống lửa (c,d) sang các loại lò hơi ống nước (e,n) đã diễn ra cách đây hàng trăm năm. Kết quả là đã đạt được việc tăng diện tích bề mặt đốt trên cơ sở giảm đường kính ống, tức là tăng được công suất lò mà tài liệu liệu khác. Trong các lò hơi ống nước nằm ngang có buồng lửa, có đầy đủ các số liệu tra cứu và các giản đồ để có thể xác định dường đại lượng một cách thuận tiện và nhanh chóng. Tài liệu này có thể dùng để thiết kế tất cả các loại lò hơi từ loại lò nhỏ nhất đến loại cực lớn và hiện đại nhất. Tinh toán nhiệt lò hơi bao gồm những chi dẫn về phương pháp, cấu tạo, tra cứu, các công thức tính toán và các giản đồ chi tiết để tính toán nhiệt kiểm và thiết kế chế tạo lò hơi. Phương pháp tinh toán kiểm tra và thiết kế đều giống nhau. Chừng khi lĩnh nhau về mục đích tính toán và các đại lượng cần tìm. Trong tính toán nhiệt tra người ta sẽ dựa vào cấu tạo và các kích thước của lò hơi, dựa vào phụ tải hơi và loại nhiên liệu đốt trong lò để xác định nhiệt độ của nước, hơi, không khí và khói tại ranh giới giữa các bề mặt đốt, hiệu suất, tiêu hao nhiên liệu, lưu lượng và tốc độ không khí và khói. Tinh toán kiểm tra cần được tiến hành để đánh giá tính kinh tế và độ tin cậy của thiết bị, phát hiện ra những biến pháp cải tiến thiết kế, chọn các thiết bị phụ và nhận các số liệu cần thiết để tiến hành tính toán thủy động và nhiệt độ kim loại… Trong tính toán thiết kế người ta xác định kích thước của buồng lửa và các bề mặt đốt của lò hơi để nhân dân được một phụ tải định mức, hiệu suất lò cho trước và các thông số hơi và nước đã chọn đối với nhiệt độ nước cấp và các đặc tính của nhiên liệu cho trước. – Phụ tải hơi định mức là phụ tải lớn nhất của đại dương của lò hơi khi vận hành lâu dài với những thông số hơi cho trước. Trong nhiệm vụ tính toán còn phải xác định tiêu hao nhiên liệu, lưu lượng không khí và khối đế chọn các thiết bị phụ. Khi tính cùng của lưu ý đến điều kiện đảm bảo sự làm việc bình thường của thiết bị (ngăn ngừa sự dông xi hoặc tro trên các bề mặt đốt, chống ăn mòn các ống bơi tro bụi, dễ phòng cháy ống và chống sét rỉ kim loại…). Nếu cần thì trên cơ sở của tính toán nhiệt có thể tính thêm thủy động, nhiệt độ kim loại, tốc độ ăn mòn bơi tro bụi. Các số liệu ban đầu để tính kiểm tra gồm có: 1) Các bảng về lò hơi và các số liệu về cấu tạo và kích thước của buồng lửa, cấu bề mặt đốt và đường khói lửa đã di xác định tất cả các đặc tính cấu tạo cần thiết; 2) Đặc tính của nhiên liệu liệu; 3) Phụ tải hơi của lò, áp suất và nhiệt độ của hơi quá nhiệt (tại van chính ra khói lò), nhiệt độ nước cấp, áp suất trong bao hơi; 4) Nếu có quá nhiệt trung gian thì phải có thêm thông số của bao hơi và nguồn khí quá nhiệt trung gian. 5) Lưu lượng nước bão hòa (khi lấy từ bao hơi); 6) Lưu lượng nước xả lò; 7) Các số liệu lấy từ tính toán hệ thống nghiêng bột than đối với các lò hơi đốt bằng bột than phun vào buồng lửa. Các số liệu ban đầu để tính toán thiết kế gồm có: 1) Loại buồng lửa và cách bố trí thiết bị; 2) Các phần còn lại cũng giống như trong tính toán kiểm tra. Nhiệt độ đó khói và không khí có thể cho trước hoặc chọn theo các điều kiện cụ thể thiết kế.