


**LỜI NÓI ĐẦU** **(Lần xuất bản bản thứ 2)** Mô học người là môn hình thái học thuộc khối những môn học cơ sở Y – Sinh học trong Trường đại học Y; là khoa học nghiên cứu sự phát triển, cách cấu tạo ở mức mô, tế bào và dưới tế bào liên quan tới những hoạt động của các mô, cơ quan cơ thể người lành mạnh không có bệnh. Có kiến thức về mô học, người học có cơ sở để tiếp thu tốt những môn y cơ sở khác cũng như những môn bệnh học và lâm sàng. Bố cục chung của cuốn Mô học người lần thứ 2 này được giữ nguyên như lần xuất bản đầu. Tuy nhiên, để đảm bảo tính cập nhật về thông tin khoa học và tính thống nhất của cuốn sách, tất cả các chương đã được xem xét, trong đó nhiều chương đã được điều chỉnh về bố cục, sửa chữa bổ sung về nội dung hoặc được viết lại. Đó là các chương: Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu tế bào và mô, Tế bào học, Biểu mô, Mô liên kết, Máu và sự tạo máu, Mô cơ, Hệ bạch huyết-miễn dịch, Hệ hô hấp, Hệ tiêu hoá, Da… Chúng tôi hy vọng rằng cuốn Mô học này là một tài liệu học tập và tham khảo có ích, và mong nhận được những ý kiến đóng góp về cuốn sách của đồng nghiệp và độc giả. PGS.TS. Trịnh Binh Trưởng bộ môn Mô-Phôi học Trường Đại học Y Hà Nội — **LỜI NÓI ĐẦU** **(Lần xuất bản bản thứ nhất)** Cùng với sự đổi mới trong công cuộc cách mạng của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng và lãnh đạo, ngành Giáo dục và Đào tạo bậc đại học nói chung và ngành Y nói riêng cũng đang từng bước đổi mới. Do đó mục tiêu, chương trình và phương pháp giảng dạy trong các trường Đại học Y cũng được xây dựng lại. Mục tiêu chung của môn Mô học trong chương trình sửa đổi được đề ra về mặt kiến thức đối với sinh viên sau khi học xong môn học phôi: (1) Mô tả cấu tạo tạo hình thái hiển vi, siêu vi, cấu tạo hoá học của các thành phần cấu tạo tế bào, các mô và các bộ phận chủ yếu của các cơ quan trong cơ thể người bình thường; (2) Trình bày được mối liên quan giữa cấu trúc và chức năng của tế bào, mô và các bộ phận chủ yếu của các cơ quan trong cơ thể người bình thường; (3) Chẩn đoán được các loại tế bào, mô và các bộ phận chủ yếu của các cơ quan trong cơ thể người bình thường khi có quan trong với những tiêu bản đã được học. Căn cứ vào mục tiêu và chương trình giảng dạy đại học sửa đổi, chúng tôi biên soạn và xuất bản cuốn sách giáo khoa này với nhan đề “Mô học”. Để đảm bảo tính hệ thống và thông tin diễn tiến của chuyên ngành, nên cuốn sách gồm các phần: Phần 1: Mô đầu-Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật nghiên cứu tế bào và mô; Phần 2: Tế bào học; Phần 3: Mô học đại cương; Phần 4: Mô học các cơ quan. Để phản biệt những nội dung sinh viên phải biết (mô tả và trình bày được) với những nội dung khám khảo, chúng tôi đã in cuốn sách với kiểu chữ khác nhau (chữ in nghiêng là phần nội dung tham khảo). Vì vậy cuốn sách này chủ yếu là sách dùng cho việc giảng dạy và học tập chương trình Mô học của trường Đại học Y, nhưng đồng thời cũng là tài liệu dùng để học tập, tham khảo cho các đối tượng sau đại học thuộc chuyên ngành Mô học và một số chuyên ngành khác của Y học. Đây là cuốn sách giáo khoa soạn lần đầu cho chương trình sửa đổi, nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong và rất cảm ơn những ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và các độc giả để lần xuất bản sau được tốt hơn. Ngày 30/5/1998 Các tác giả — **PHẦN MỘT** **CHƯƠNG 1** **MỞ ĐẦU** Trong sinh học, về mặt hình thái học, cần cứ vào kích thước đôi tượng nghiên cứu và vào phương tiện sử dụng để nghiên cứu, người ta phân biệt các môn học sau: * Giải phẫu học * Mô học * Tế bào học * Hình thái học siêu vi (còn gọi là cấu trúc) * Sinh học phân tử (cấu trúc phân tử và nguyên tử). Cách phân chia các môn học thuộc ngành hình thái học tóm tắt như sau: **Bảng 1.1. Phân chia các môn học thuộc ngành Hình thái học** | Các môn học | Cấu trúc nghiên cứu | Kích thước nghiên cứu | Dụng cụ và phương pháp nghiên cứu | | :——— | :—————– | :——————- | :——————————– | | Giải phẫu học đại thể | Các cơ quan, cấu bộ máy | Tử 0,1mm trở lên | Mắt thường, kính lúp | | Mô học (giải phẫu vi thể) | Các mô, các thành phần cấu tạo cơ quan | 100μm-10μm | Kính hiển vi quang học các loại | | Tế bào học | Tế bào, vi khuẩn | 10μm -0,2μm | Kính hiển vi tia Roentgen | | Hình thái học siêu vi (cấu trúc tế bào vi hai) (cấu trúc phân tử vi siêu vi) | Thành phần cấu tạo tế bào vi khuẩn, siêu vi vi khuẩn | 0,2μm – 1nm | Kính hiển vi quang học, Kính hiển vi điện tử | | Sinh học phân tử (cấu trúc phân tử và nguyên tử) | Sự phân bố phân tử và nguyên tử | Nhỏ hơn 1nm | Phân tích bằng tia Roentgen | \*Đơn vị đo lường dùng trong mô học: Từ năm 1983, đơn vị đo lường Hệ thống thông dụng quốc tế (SI) dùng trong lĩnh vực hiển vi là: * Micromet hiệu µm (thay cho thuật ngữ micrôn-µ) có giá trị tương đương 0,001mm, 10<sup>-6</sup>m; * Nanomet, ký hiệu nm, có giá trị tương đương 0,001μm, 10<sup>-9</sup>m. Trước năm 1983, còn dùng đơn vị đo lường Ångstrom (A = 0,1nm, 10<sup>-10</sup>m) Căn cứ vào bảng phân loại môn học hình thái học ta thấy đối tượng nghiên cứu của mỗi môn học đều có một giới hạn hạn về kích thước, có các dụng cụ và phương pháp nghiên cứu đặc thù. Vì vậy thật không đúng khi cho rằng về mô học, về mặt hình thái học chỉ có môn Giải phẫu học, không có môn Mô học. Sở dĩ có sự hiểu lầm như vậy vì có lẽ ở nơi nào đó người ta dùng một tên khác, thí dụ Giải phẫu vi thể, để chỉ môn Mô học. Tuy sự phân chia thành các môn học riêng biệt của ngành hình thái học không nhất thiết chỉ dòng khung việc nghiên cứu của mình trong môn học. Khi mà mình làm thêm. Họ có thể mở rộng việc nghiên cứu của mình sang các môn học khác để bổ sung sự hiểu biết và nâng cao kiến thức. Cũng vậy, những người nghiên cứu về hình thái bình thường của tế bào, mô và cơ quan vẫn có thể nghiên cứu về hình thái bất thường của chúng. Vì vậy, trong nghiên cứu, cũng không thể và không nên phân biệt ranh giới, và không có độc quyền phạm vi mà này hay phạm vi kia. **1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TẾ BÀO HỌC VÀ MÔ HỌC** Việc nghiên cứu tế bào và mô bắt đầu từ thế kỷ 17, nhưng mãi tới phần tử cuối của thế kỷ 19. Tế bào học và Mô học mới thực sự được coi là những ngành khoa học khoa. Khi chưa có học thuyết tế bào sơ đẳng, việc nghiên cứu tế bào và mô bị những thuyết duy tâm siêu hình (thuyết tiến hóa) kìm hãm. Mặt khác, muốn nghiên cứu tế bào và mô phải có kính hiển vi. Vì vậy, tế bào học, mô học chỉ có thể phát triển nhờ sự phát minh và hoàn thiện việc chế tạo các loại kính hiển vi và các kỹ thuật hiển vi. Năm 1665, R.Hooke quan sát miếng nút chai dưới kính hiển vi đã đưa ra kết luận: “Miếng nút chai được tạo thành bởi những túi nhỏ hay tế bào, độc lập với nhau và chứa đầy không khí”.


